Trang Kinh

 


佛垂般涅槃略說教誡經()

Phật thùy Bát Niết Bàn lược thuyết giáo giới kinh ( diệc danh di giáo kinh )

 

 

hậu tần quy quốc Tam Tạng cưu ma la thập phụng chiếu dịch 後秦龜茲國三藏鳩摩羅什奉 詔譯


Kinh Giáo huấn vắn tắt của Đức Phật lúc sắp Niết bàn

 

  Thích Ca Mâu Ni Phật chuyển Pháp luân độ A Nhã Kiều Trần Như tối hậu thuyết Pháp độ Tu Bạt Đà La sở ưng độ giả giai độ ngật ư sa la song thụ gian tương nhập Niết Bàn thị thời trung dạ tịch nhiên thanh chư đệ tử lược thuyết Pháp yếu

 釋迦牟尼佛初轉法輪,度阿若憍陳如,最後說法度須跋陀羅,所應度者皆已度訖,於娑羅雙樹間將入涅槃。是時中夜寂然無聲,為諸弟子略說法要:

 Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp lần đầu tiên hóa độ tôn giả Kiều trần như, thuyết pháp lần cuối cùng hóa độ tôn giả Tu bạt đàla. Những người có thể hóa độ, Ngài đã hóa độ tất cả. Hôm nay, trong rừng Sa la, giữa cây song thọ, Ngài sắp niết bàn. Bấy giờ là lúc giữa đêm, hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động, Ngài đãvì các đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp.

nhữ đẳng Tỳ Kheo ư ngã diệt hậu đương tôn trọng trân kính Ba La Đề Mộc Xoa như ám ngộ minh bần nhân đắc bảo đương tri thử tắc thị nhữ đại nhược ngã trụ thế dị thử trì tịnh giới giả bất đắc phán mại 貿mậu dị an trí điền trạch súc dưỡng nhân dân tỳ súc sanh nhất thiết chủng/chúng thực cập chư tài bảo giai đương viễn ly như tị hỏa khanh bất đắc trảm phạt thảo mộc khẩn thổ quật địa hợp hòa thang dược chiêm tướng kiết hung ngưỡng quan tinh 宿 thôi bộ doanh lịch số toán kế giai sở bất ưng tiết thân thời thực thanh tịnh tự hoạt bất đắc tham dự thế sự thông trí 使sứ mạng chú thuật tiên dược kết hảo quý nhân thân hậu tiết giai bất ưng tác đương tự đoan tâm chánh niệm cầu độ bất đắc bao tạng tỳ hiển dị hoặc chúng ư tứ cúng dường tri lương tri túc thú đắc cúng sự bất ưng/ứng tích thử tắc lược thuyết trì giới chi tướng giới thị chánh thuận giải thoát chi bổn cố danh Ba La Đề Mộc Xoa y nhân thử giới đắc sanh chư thiền định cập diệt khổ trí tuệ thị cố Tỳ Kheo đương trì tịnh giới vật linh hủy phạm nhược nhân năng trì tịnh giới thị tắc năng hữu thiện Pháp nhược tịnh giới chư thiện công đức giai bất đắc sanh thị đương tri giới vi đệ nhất an ẩn công đức chi sở trú xứ

 汝等比丘,於我滅後,當尊重珍敬波羅提木叉,如闇遇明、貧人得寶。當知此則是汝大師,若我住世無異此也。持淨戒者,不得販賣貿易、安置田宅、畜養人民奴婢畜生,一切種殖及諸財寶,皆當遠離如避火坑。不得斬伐草木、墾土掘地,合和湯藥、占相吉凶、仰觀星宿推步盈虛、曆數算計,皆所不應。節身時食清淨自活,不得參預世事通致使命,呪術仙藥、結好貴人親厚媟嫚,皆不應作。當自端心正念求度,不得苞藏瑕疵、顯異惑眾。於四供養知量知足,趣得供事不應稸積。此則略說持戒之相。戒是正順解脫之本,故名波羅提木叉。依因此戒,得生諸禪定及滅苦智慧。是故比丘,當持淨戒勿令毀犯。若人能持淨戒,是則能有善法;若無淨戒,諸善功德皆不得生。是以當知,戒為第一安隱功德之所住處。

Các thầy Tỷ kheo, sau khi Như lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy.

Giữ tịnh giới thì các thầy không được buôn, bán, đổi chác, sắm sửa đất nhà, nuôi người, tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh tài bảo. Tất cả việc này, hãy tránh như tránh hố lửa. Kể cả việc chặt phá cỏ cây và đào cuốc đất đai. Những việc chế thuốc thang, coi bói tướng, coi thiên văn, đoán thời tiết, tính lịch số, đều không thích hợp với các thầy. Các thầy hãy tiết chế cơ thể, ăn đúng thì giờ, sống bằng cách sống trong sạch, không được tham dự thế sự, lãnh sứ mạng liên lạc. Chú thuật, thuốc tiên, giao hảo quyền quí, và thân thiết với họ, rồi hèn hạ, ngạo mạn, tất cả đều không được làm. Phải tự đoan tâm, chánh niệm cầu độ. Không được che giấu lầm lỗi, tỏ ra kỳ dị để mê hoặc quần chúng. Đối với bốn sự hiến cúng thì phải biết tự lượng và biết vừa đủ. Hễ được hiến cúng thì không nên tích trữ.

Đó là Như lai nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải thoát, nên Như lai mệnh danh Ba la đề mộc xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ. 

Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu sót. Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sinh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức.


 nhữ đẳng Tỳ Kheo năng trụ giới đương chế ngũ căn vật linh phóng dật nhập ư ngũ dục thí như mục ngưu chi nhân chấp trượng thị chi bất linh túng dật phạm nhân miêu giá nhược túng ngũ căn phi duy ngũ dục tương/tướng nhai bạn bất khả chế diệc như ác bất chế tương đương khiên nhân trụy ư khanh hãm như bị kiếp hại khổ chỉ nhất thế ngũ căn tặc họa ương cập lũy thế hại thậm trọng bất khả bất thận thị cố trí giả chế nhi bất tùy trì chi như tặc bất linh túng dật giả linh túng chi giai diệc bất cửu kiến kỳ ma diệt thử ngũ căn giả tâm vi kỳ chủ thị cố nhữ đẳng đương hảo chế tâm tâm chi khả úy thậm ư độc ác thú oán tặc đại hỏa việt dật vị túc dụ động chuyển khinh táo đãn quán ư mật bất kiến thâm khanh thí như cuồng tượng câu viên hầu đắc thụ đằng dược khiêu trịch nan khả cấm chế đương cấp tỏa chi linh phóng dật túng thử tâm giả táng nhân thiện sự chế chi nhất xứ sự bất biện thị cố Tỳ Kheo đương cần tinh tấn chiết phục kỳ tâm

 

汝等比丘,已能住戒當制五根,勿令放逸入於五欲,譬如牧牛之人執杖視之,不令縱逸犯人苗稼。若縱五根,非唯五欲將無崖畔不可制也,亦如惡馬不以轡制,將當牽人墜於坑陷。如被劫害苦止一世,五根賊禍殃及累世,為害甚重,不可不慎。是故智者制而不隨,持之如賊不令縱逸;假令縱之,皆亦不久見其磨滅。此五根者,心為其主。是故汝等當好制心,心之可畏甚於毒蛇、惡獸、怨賊,大火越逸,未足喻也。動轉輕躁,但觀於蜜不見深坑,譬如狂象無鈎、猿猴得樹,騰躍跳躑,難可禁制,當急挫之無令放逸。縱此心者喪人善事,制之一處無事不辦。是故比丘,當勤精進折伏其心。

 

Các thầy Tỷ kheo, đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự năm thứ giác quan, không cho phóng túng vào trong năm thứ dục lạc. Như kẻ chăn trâu, cầm gậy mà coi giữ, không cho phóng túng, phạm vào lúa má của người. Phóng túng năm thứ giác quan, thì không những chỉ có năm thứ dục lạc, mà có thể sẽ không còn giới hạn nào nữa, không thể cấm chế. Như con ngựa hung hãn mà không được chế ngự bằng giây cương, thì sẽ mang người lao xuống hầm hố. Giặc cướp làm hại, khổ chỉ một đời, còn giặc giác quan họa đến nhiều kiếp: tai hại rất nặng, các thầy không thể không cẩn thận. Thế nên người có trí thì chế ngự mà không theo, giữ như giữ giặc, không cho phóng túng. Giả sử phóng túng năm thứ giác quan, thì cũng không bao lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất cả.

Các thầy Tỷ kheo, năm thứ giác quan do tâm chủ động, vì vậy mà các thầy lại phải thận trọng chế ngự tâm mình. Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy lan tràn cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu, như thế không khác gì voi điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng, thì sẽ hung hăng nhảy vọt, khó mà ngăn cản; các thầy phải cấp tốc tỏa chiết, đừng cho phóng túng. Phóng túng tâm ra thì làm tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm lại một chỗ thì không việc gì không thành. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy nỗ lực tinh tiến mà chiết phục tâm mình.


nhữ đẳng Tỳ Kheo thọ chư ẩm thực đương như phục dược ư hảo ư ác vật sanh tăng giảm thú đắc chi thân trừ khát như phong thải hoa đãn thủ kỳ vị bất tổn sắc hương Tỳ Kheo diệc nhĩ thọ nhân cúng dường thủ tự trừ não đắc đa cầu hoại kỳ thiện tâm thí như trí giả trù lượng ngưu lực sở kham đa thiểu bất linh quá phần kiệt kỳ lực

 

汝等比丘,受諸飲食當如服藥,於好於惡勿生增減,趣得支身以除飢渴。如蜂採花,但取其味不損色香;比丘亦爾,受人供養取自除惱,無得多求壞其善心。譬如智者籌量牛力所堪多少,不令過分以竭其力。

 Các thầy Tỷ kheo, thọ dụng đồ ăn thức uống, hãy coi như việc uống thuốc, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ duy trì cơ thể cho khỏi đói khát. Như ong lấy hoa, chỉ lấy mùi vị mà không tổn thương hương sắc, người xuất gia cũng vậy. Thọ dụng cúng phẩm của người vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Hãy bắt chước kẻ khôn ngoan, biết lượng sức lực con trâu của mình chịu đựng nhiều ít, không dùng quá sức đến nỗi kiệt lực. 


nhữ đẳng Tỳ Kheo trú tắc cần tâm tu tập thiện Pháp linh thất thời dạ hậu dạ diệc vật hữu phế trung dạ tụng Kinh tự tiêu tức thụy miên nhân duyên linh nhất sanh không qua sở đắc đương niệm thường chi hỏa thiêu chư thế gian tảo cầu tự độ vật thụy miên chư phiền não tặc thường tứ sát nhân thậm ư oán gia an khả thụy miên bất tự kinh ngụ phiền não độc thụy tại nhữ tâm thí như hắc ngoan tại nhữ thất thụy đương trì giới chi câu tảo bính trừ chi thụy xuất nãi khả an miên bất xuất nhi miên thị tàm nhân tàm sỉ chi phục ư chư trang nghiêm tối vi đệ nhất tàm như thiết câu năng chế nhân phi pháp thị cố Tỳ Kheo thường đương tàm sỉ đắc tạm thế nhược ly tàm sỉ tắc thất chư công đức hữu quý chi nhân tắc hữu thiện Pháp nhược quý giả dữ chư cầm thú tướng dị

 

汝等比丘,晝則勤心修習善法,無令失時,初夜後夜亦勿有廢,中夜誦經以自消息,無以睡眠因緣令一生空過無所得也。當念無常之火燒諸世間,早求自度勿睡眠也。諸煩惱賊常伺殺人,甚於怨家,安可睡眠不自驚寤?煩惱毒蛇睡在汝心,譬如黑蚖在汝室睡,當以持戒之鉤早摒除之。睡蛇既出乃可安眠,不出而眠是無慚人也。慚恥之服,於諸莊嚴最為第一,慚如鐵鉤,能制人非法。是故比丘,常當慚恥,無得暫替;若離慚恥則失諸功德。有愧之人則有善法;若無愧者,與諸禽獸無相異也。

 Các thầy Tỷ kheo, ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, đầu đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tự tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi. Hãy nhớ ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, để sớm cầu tự độ, đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền não thường rình giết ta, dữ hơn kẻ thù, tại sao ta có thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong tâm, cũng như rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giữ giới mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ. Không ra mà ngủ thì thật là kẻ không biết hổ thẹn.- Sự hổ thẹn là phục sức đẹp nhất trong mọi thứ phục sức. Như cái móc sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con người. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn, sỉ nhục, đừng bao giờ, dầu chỉ tạm thời mà thôi, được phép quên mất đức tính ấy. Mất hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hổ thẹn thì không khác gì cầm thú.

 

nhữ đẳng Tỳ Kheo nhược hữu nhân lai tiết tiết chi giải đương tự nhiếp tâm linh sân hận diệc đương hộ khẩu vật xuất ác ngôn nhược túng khuể tâm tắc tự phương Đạo thất công đức lợi nhẫn chi vi đức trì giới khổ hạnh sở bất năng cập năng hành nhẫn giả nãi khả danh vi Hữu Lực Đại Nhân nhược kỳ bất năng hoan hỷ nhẫn thọ ác mạ chi độc như ẩm cam lộ giả bất danh Nhập Đạo Trí Tuệ Nhân

 

sở giả sân khuể chi hại năng phá chư thiện Pháp hoại hảo danh văn kim thế hậu thế nhân bất kiến đương tri sân tâm thậm ư mãnh hỏa thường đương phòng hộ linh đắc nhập kiếp công đức tặc quá sân khuể bạch y thọ dục phi hành Đạo nhân pháp tự chế sân do khả thứ xuất gia hành Đạo dục chi nhân nhi hoài sân khuể thậm bất khả thí như thanh lãnh vân trung phích lịch khởi hỏa phi sở ưng

 

汝等比丘,若有人來節節支解,當自攝心無令瞋恨,亦當護口勿出惡言;若縱恚心,則自妨道、失功德利。忍之為德,持戒苦行所不能及。能行忍者,乃可名為有力大人;若其不能歡喜忍受惡罵之毒如飲甘露者,不名入道智慧人也。所以者何?瞋恚之害能破諸善法、壞好名聞,今世後世人不憙見。當知瞋心甚於猛火,常當防護無令得入,劫功德賊無過瞋恚。白衣受欲非行道人,無法自制,瞋猶可恕;出家行道無欲之人,而懷瞋恚,甚不可也。譬如清冷雲中霹靂起火,非所應也。

 

Các thầy Tỷ kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kềm chế tâm mình, đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dữ nổi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức. Đức tính của Nhẫn, giữ giới và khổ hạnh không thể sánh bằng. Thực hành đức Nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Tại sao, vì giận dữ thì phá hủy hết thảy thiện pháp và danh tiếng đáng quí, hiện tại vị lai không ai muốn nhìn. Sự giận dữ hơn cả ngọn lửa ác liệt, vì thế mà các thầy phải đề phòng một cách thường trực, đừng cho xâm nhập tâm trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ. Thế gian hưởng thụ dục lạc, không phải là kẻ hành đạo, không có phương pháp để tự khống chế, thế nên giận dữ thì còn có thể tha thứ được. Còn người xuất gia hành đạo là kẻ loại bỏ dục vọng, vậy mà giận dữ thì thật bất đáng ; không khác gì giữa bầu trời mây trong mát mà sấm sét lóe lửa là điều không thích hợp. 


nhữ đẳng Tỳ Kheo đương tự ma đầu xả sức hảo trước hoại sắc y chấp trì ứng khí khất tự hoạt tự kiến như thị nhược khởi kiêu mạn đương tật diệt chi vị trường/trưởng kiêu mạn thượng phi thế tục bạch y sở nghi huống xuất gia nhập Đạo chi nhân giải thoát cố tự giáng/hàng kỳ tâm nhi hành khất da

 

汝等比丘,當自摩頭,已捨飾好著壞色衣,執持應器以乞自活,自見如是,若起憍慢當疾滅之。謂長憍慢尚非世俗白衣所宜,何況出家入道之人為解脫故,自降其心而行乞耶?

 Các thầy Tỷ kheo, hãy tự xoa đầu mình, đã bỏ sự trang sức và đồ tốt đẹp, mình mặc áo hoại sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất thực để sống; tự thấy như vậy mà kiêu ngạo còn nổi lên, thì phải cấp tốc tỏa chiết. Tăng thêm kiêu ngạo là điều mà thế nhân còn không nên có, huống chi người xuất gia nhập đạo là kẻ vì giải thoát, tự giáng mình xuống mà đi khất thực?

 

nhữ đẳng Tỳ Kheo siểm khúc chi tâm dữ Đạo tương vi thị cố nghi ưng chất trực kỳ tâm đương tri siểm khúc đãn vi khi cuống nhập Đạo chi nhân tắc thị xứ thị cố nhữ đẳng nghi ưng đoan tâm chất trực vi bổn

 

汝等比丘,諂曲之心與道相違,是故宜應質直其心。當知諂曲但為欺誑,入道之人則無是處。是故汝等宜應端心,以質直為本。

 Các thầy Tỷ kheo, tâm lý dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế nên các thầy phải chất trực tâm mình. Phải ý thức dua nịnh quanh co chỉ để dối trá, mà người nhập đạo thì không thể như vậy. Vì thế mà các thầy cần phải ngay thẳng tâm mình, lấy đức tính chất trực làm căn bản.


nhữ đẳng Tỳ Kheo đương tri đa dục chi nhân đa cầu lợi cố khổ não diệc đa thiểu dục chi nhân cầu dục tắc thử hoạn trực nhĩ thiểu dục thượng ưng/ứng tu tập huống thiểu dục năng sanh chư thiện công đức thiểu dục chi nhân tắc siểm khúc cầu nhân ý diệc phục bất vị chư căn sở khiên hành thiểu dục giả tâm tắc thản nhiên sở ưu úy xúc sự hữu thường bất túc hữu thiểu dục giả tắc hữu Niết Bàn thị danh thiểu dục

 

汝等比丘,當知多欲之人多求利故,苦惱亦多;少欲之人無求無欲,則無此患。直爾少欲尚應修習,何況少欲能生諸善功德?少欲之人則無諂曲以求人意,亦復不為諸根所牽。行少欲者,心則坦然無所憂畏,觸事有餘常無不足,有少欲者則有涅槃。是名少欲。

 Các thầy Tỷ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì vì nhiều sự cầu lợi nên khổ não cũng nhiều. Còn ít ham muốn thì không cầu hồ, không dục vọng, nên không có cái họa đó. Chỉ có như thế mà thôi, sự ít ham muốn cũng đã phải thực tập, huống chi sự ấy còn đem lại đủ các công đức. Người ít ham muốn thì không dua nịnh quanh co để cầu được lòng người, cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thừa thải, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn. Có ít ham muốn là có niết bàn. Đó là hạnh ít ham muốn. 

nhữ đẳng Tỳ Kheo nhược dục thoát chư khổ não đương quán tri túc tri túc chi pháp tức thị phú lạc an ẩn chi xứ tri túc chi nhân tuy ngọa địa thượng do vi an lạc bất tri túc giả tuy xứ thiên đường diệc bất xưng ý bất tri túc giả tuy phú nhi bần tri túc chi nhân tuy bần nhi phú bất tri túc giả thường vị ngũ dục sở khiên vi tri túc giả chi sở lân mẫn thị danh tri túc

 

汝等比丘,若欲脫諸苦惱,當觀知足,知足之法即是富樂安隱之處。知足之人,雖臥地上猶為安樂;不知足者,雖處天堂亦不稱意。不知足者雖富而貧,知足之人雖貧而富。不知足者常為五欲所牽,為知足者之所憐愍。是名知足。

 Các thầy Tỷ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ. Chính sự biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở thiên đường cũng vẫn bất mãn. Không biết vừa đủ thì giàu mà nghèo, biết vừa đủ thì nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ thì luôn luôn bị cả năm thứ dục lạc lôi kéo, làm cho người biết vừa đủ phải xót thương. Đó là hạnh biết vừa đủ.


nhữ đẳng Tỳ Kheo nhược cầu tịch tĩnh vi an lạc đương ly hội náo độc xứ nhàn tĩnh xứ chi nhân Đế Thích chư thiên sở cộng kính trọng thị cố đương xả kỷ chúng tha chúng không nhàn độc xứ diệt khổ bổn nhược nhạo chúng giả tắc thọ chúng não thí như đại thụ chúng điểu tập chi tắc hữu khô chiết chi hoạn thế gian phược trước một ư chúng khổ thí như lão tượng nịch bất năng tự xuất thị danh viễn ly

 

汝等比丘,若求寂靜無為安樂,當離憒閙、獨處閑居,靜處之人帝釋諸天所共敬重。是故當捨己眾他眾,空閑獨處思滅苦本。若樂眾者則受眾惱,譬如大樹眾鳥集之,則有枯折之患。世間縛著沒於眾苦,譬如老象溺泥不能自出。是名遠離。

 Các thầy Tỷ kheo, muốn cầu yên tĩnh, vô vi và an lạc, thì các thầy hãy thoát ly mọi sự ồn ào và bối rối, ở đơn độc và ở một cách thư thái. Người ở yên tĩnh thì chúa trời Đế thích và chư thiên đều tôn kính. Vì thế mà các thầy hãy thoát ly đồ chúng của mình, và đồ chúng của người, ở đơn độc, thư thái và thanh vắng, dùng "tư duy tu" mà cắt đứt gốc rễ đau khổ. Nếu thích đồ chúng thì sẽ bị đồ chúng quấy phá, như cây đại thọ mà cả bầy chim chóc tập hợp lại thì vẫn bị cái họa khô gãy. Thế gian ràng buộc mà chìm ngập thống khổ, thì cũng không khác gì voi già mà sa xuống bùn lầy, hết mong thoát khỏi. Đó là hạnh siêu thoát.


nhữ đẳng Tỳ Kheo nhược cần tinh tấn tắc sự nạn giả thị cố nhữ đẳng đương cần tinh tấn thí như tiểu thủy thường lưu tắc năng 穿xuyên thạch nhược hành giả chi tâm sác sác giải phế thí như toản hỏa vị nhiệt nhi tức tuy dục đắc hỏa hỏa nan khả đắc thị danh tinh tấn

 

汝等比丘,若勤精進則事無難者,是故汝等當勤精進,譬如小水常流則能穿石。若行者之心數數懈廢,譬如鑽火未熱而息,雖欲得火,火難可得。是名精進。

 Các thầy Tỷ kheo, nỗ lực tinh tiến thì không có việc gì khó khăn. Thế nên các thầy phải thực hành sự nỗ lực tinh tiến. Nước nhỏ mà chảy mãi thì có thể xuyên thủng cả đá. Nếu người hành đạo mà hay biếng nhác phế bỏ, thì cũng như kéo lửa chưa nóng mà đã ngừng, dầu thiết tha có lửa, lửa cũng khó mà có được. Đó là hạnh tinh tiến.


nhữ đẳng Tỳ Kheo cầu Thiện Tri Thức cầu thiện hộ trợ nhi bất vong niệm nhược bất vong niệm giả chư phiền não tặc tắc bất năng nhập thị cố nhữ đẳng thường đương nhiếp niệm tại tâm nhược thất niệm giả tắc thất chư công đức nhược niệm lực kiên cường tuy nhập ngũ dục tặc trung bất vị sở hại thí như trước khải nhập trận tắc sở úy thị danh bất vong niệm

 

汝等比丘,求善知識、求善護助而不忘念;若不忘念者,諸煩惱賊則不能入。是故汝等常當攝念在心,若失念者則失諸功德。若念力堅強,雖入五欲賊中不為所害,譬如著鎧入陣則無所畏。是名不忘念。

Các thầy Tỷ kheo, cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trì và cầu thiện hỗ trợ, đều không bằng không quên chánh niệm. Không quên chánh niệm thì giặc phiền não hết cách xâm nhập tâm trí. Thế nên các thầy hãy luôn luôn tập trung chánh niệm lại nơi tâm trí. Mất chánh niệm là mất công đức. Nếu chánh niệm có sức lực vững mạnh, thì dẫu phải vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặc áo giáp lát đồng, thì không còn sợ hãi gì nữa. Đó là hạnh không quên chánh niệm.

 

nhữ đẳng Tỳ Kheo nhược nhiếp tâm giả tâm tắc tại định tâm tại định cố năng tri thế gian sanh diệt pháp tướng thị cố nhữ đẳng thường đương tinh cần tu tập chư định nhược đắc định giả tâm tắc bất loạn thí như tích thủy chi gia thiện trị đê đường hành giả diệc nhĩ trí tuệ thủy cố thiện tu thiền định linh bất lậu thất thị danh vi định

 

汝等比丘,若攝心者心則在定,心在定故能知世間生滅法相。是故汝等常當精勤修集諸定,若得定者心則不亂,譬如惜水之家善治堤塘;行者亦爾,為智慧水故,善修禪定令不漏失。是名為定。

 Các thầy Tỷ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tiến, nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì phải đắp đê sửa bờ cho khéo, hành giả cũng vậy, hãy vì nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Đó là hạnh thiền định.

nhữ đẳng Tỳ Kheo nhược hữu trí tuệ tắc tham trước thường tự tỉnh sát bất linh hữu thất thị tắc ư ngã Pháp trung năng đắc giải thoát nhược bất nhĩ giả phi Đạo nhân hựu phi bạch y sở danh thật trí tuệ giả tắc thị độ lão bệnh tử hải kiên lao thuyền diệc thị minh hắc ám đại minh đăng nhất thiết bệnh khổ chi lương dược phạt phiền não thụ giả chi lợi phủ thị cố nhữ đẳng đương văn tu tuệ nhi tự tăng ích nhược nhân hữu trí tuệ chi chiếu tuy thiên nhãn nhi thị minh kiến nhân thị vi trí tuệ

 

汝等比丘,若有智慧則無貪著,常自省察不令有失,是則於我法中能得解脫;若不爾者,既非道人又非白衣,無所名也。實智慧者,則是度老病死海堅牢船也,亦是無明黑闇大明燈也,一切病苦之良藥也,伐煩惱樹者之利斧也。是故汝等當以聞、思、修慧而自增益;若人有智慧之照,雖無天眼而是明見人也。是為智慧。

 Các thầy Tỷ kheo, có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như lai, người ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Không như thế thì đã không phải xuất gia, lại không phải thế tục, không còn biết gọi là gì. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc nhất vượt biển sinh lão bịnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bịnh tật, là búa sắc chặt cây phiền não. Vì thế mà các thầy hãy dùng cái tuệ văn tư tu chứng để tự tăng tiến ích lợi. Có trí tuệ soi chiếu, thì dẫu mắt thịt, cũng vẫn là kẻ thấy rõ nhất. Đó là hạnh trí tuệ.


nhữ đẳng Tỳ Kheo nhược chủng chủng luận kỳ tâm tắc loạn tuy phục xuất gia do vị đắc thoát thị cố Tỳ Kheo đương cấp xả ly loạn tâm luận nhược nhữ dục đắc tịch diệt lạc giả duy đương thiện diệt luận chi hoạn thị danh bất luận

 

汝等比丘,若種種戲論其心則亂,雖復出家猶未得脫。是故比丘,當急捨離亂心戲論;若汝欲得寂滅樂者,唯當善滅戲論之患。是名不戲論。

 Các thầy Tỷ kheo, nếu hý luận đủ thứ thì tâm trí rối loạn. Như vậy, tuy đã xuất gia mà chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy từ bỏ tức khắc sự hý luận rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, thì chỉ có cách cấp tốc diệt trừ cái họa hý luận. Đó là hạnh không hý luận. 

 

nhữ đẳng Tỳ Kheo ư chư công đức thường đương nhất tâm xả chư phóng dật như ly oán tặc đại bi Thế Tôn sở dục lợi ích giai cứu cánh nhữ đẳng đãn đương cần nhi hành chi nhược tại sơn gián nhược không trạch trung nhược tại thụ hạ nhàn xứ tĩnh thất niệm sở thọ Pháp vật linh vong thất thường đương tự miễn tinh tấn tu chi vi không tử hậu trí ưu hối ngã như lương y tri bệnh thuyết dược phục dữ bất phục phi y cữu hựu như thiện đạo đạo nhân thiện đạo văn chi bất hành phi đạo quá nhữ đẳng nhược ư khổ đẳng Tứ Đế hữu sở nghi giả khả tật vấn chi đắc hoài nghi bất cầu quyết

 

汝等比丘,於諸功德常當一心,捨諸放逸如離怨賊。大悲世尊所欲利益皆以究竟,汝等但當勤而行之。若在山間、若空澤中、若在樹下、閑處靜室,念所受法勿令忘失,常當自勉精進修之,無為空死後致憂悔。我如良醫,知病說藥,服與不服,非醫咎也。又如善導,導人善道,聞之不行,非導過也。汝等若於苦等四諦有所疑者,可疾問之,無得懷疑不求決也。」

 Các thầy Tỷ kheo, đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù. Thể hiện lòng đại bi, Như lai đã nói chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành. Hoặc trong rừng núi, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các thầy hãy ở một cách thư thái, trong tịnh thất nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận, đừng để quên mất. Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình sẽ chết đi một cách vô ích, vàsau này sẽ phải lo sợ hối hận. Như lai như vị lương y, biết bịnh mà chỉ thuốc, còn uống hay không, không phải lỗi của lương y. Lại như người dẫn đường rất tốt,chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người dẫn đường. Các thầy Tỷ kheo, đối với bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp. 


nhĩ thời Thế Tôn như thị tam xướng nhân vấn giả

 sở giả chúng nghi cố

爾時世尊如是三唱,人無問者。所以者何?眾無疑故。

Thế tôn nói lên ba lần như vậy, nhưng không ai chất vấn. Vì lẽ chư Tăng không có ai còn hoài nghi gì nữa. 


nhĩ thời a nậu lâu đà quán sát chúng tâm nhi bạch Phật ngôn

 Thế Tôn nguyệt khả linh nhiệt nhật khả linh lãnh Phật thuyết Tứ Đế bất khả linh dị Phật thuyết Khổ Đế chân thật thị khổ bất khả linh lạc tập chân thị nhân cánh dị nhân khổ nhược diệt giả tức thị nhân diệt nhân diệt cố quả diệt diệt khổ chi đạo thật thị chân Đạo cánh đạo Thế Tôn thị chư Tỳ Kheo ư Tứ Đế trung quyết định nghi ư thử chúng trung sở tác vị biện giả kiến Phật diệt độ đương hữu bi cảm nhược hữu nhập Pháp giả văn Phật sở thuyết tức giai đắc độ thí như dạ kiến điện quang tức đắc kiến đạo nhược sở tác biện độ khổ hải giả đãn tác thị niệm

Thế Tôn diệt độ nhất tật tai

 爾時阿㝹樓馱觀察眾心而白佛言:

世尊!月可令熱,日可令冷,佛說四諦不可令異。佛說苦諦真實是苦,不可令樂;集真是因,更無異因;苦若滅者即是因滅,因滅故果滅。滅苦之道實是真道,更無餘道。世尊!是諸比丘於四諦中決定無疑。於此眾中所作未辦者,見佛滅度當有悲感,若有初入法者,聞佛所說即皆得度,譬如夜見電光即得見道;若所作已辦、已度苦海者,但作是念:『世尊滅度,一何疾哉!』」

Bấy giờ tôn giả A nâu lâu đà quán sát tâm trí chư Tăng, rồi thưa với Ngài, bạch đức Thế tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng bốn chân lý mà đức Thế tôn đã dạy thì không thể làm cho khác đi được. Ngài dạy khổ thì thật là khổ, không thể làm cho vui lên; tập là nguyên nhân của khổ, thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa; diệt là khổ diệt vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân diệt thì kết quả cũng diệt ; đạo là phương pháp diệt khổ nên thật là đạo, không có đạo nào khác hơn. Bạch đức Thế tôn, đối với bốn chân lý,các vị Tỷ kheo đây đã quyết định, không còn hoài nghi gì nữa.


a nậu lâu đà tuy thuyết thị ngữ chúng trung giai tất liễu đạt Tứ Thánh Đế nghĩa Thế Tôn dục linh thử chư đại chúng giai đắc kiên cố đại bi tâm phục chúng thuyết

 

阿㝹樓馱雖說是語,眾中皆悉了達四聖諦義。世尊欲令此諸大眾皆得堅固,以大悲心復為眾說:

 Do đó, tôn giả A nâu lâu đà tuy đã bạch Phật, rằng chư Tăng ai cũng thấu triệt bốn chân lý, nhưng đức Thế tôn muốn làm cho tất cả đều được kiên định, nên vẫn đem tâm đại bi mà huấn dụ thêm nữa. Các thầy Tỷ kheo, không nên buồn rầu ; nếu Như lai ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa, thì sự kết hợp nào rồi cũng phải tan rã. Kết hợp mà không tan rã là điều không thể có được. Chánh pháp tự lợi lợi tha đã có đầy đủ. Như lai sống cho lâu cũng không còn ích lợi gì nữa. Ai có khả năng tiếp nhận hóa độ, thì ở trên chư thiên hay ở trong nhân loại, Như lai đã hóa độ tất cả. Ai chưa thể tiếp nhận hóa độ, thì Như lai cũng đã tạo yếu tố hóa độ cho họ. Từ nay về sau, đệ tử của Như lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như lai thường trú bất diệt.


nhữ đẳng Tỳ Kheo vật hoài ưu não nhược ngã trụ thế nhất kiếp hội diệc đương diệt hội nhi bất ly chung bất khả đắc tự lợi lợi nhân Pháp giai cụ túc nhược ngã cửu trụ cánh sở ích ưng khả độ giả nhược thiên thượng nhân gian giai tất độ kỳ vị độ giả giai diệc tác đắc độ nhân duyên tự kim hậu ngã chư đệ tử triển chuyển hành chi tắc thị Như Lai Pháp thân thường tại nhi bất diệt thị cố đương tri thế giai thường hội tất hữu ly vật hoài ưu thế tướng như thị đương cần tinh tấn tảo cầu giải thoát trí tuệ minh diệt chư si ám thế thật nguy thúy lao cường/cưỡng giả ngã kim đắc diệt như trừ ác bệnh thử thị ưng/ứng xả tội ác chi vật giả danh vi thân một tại sanh lão bệnh tử đại hải hữu trí giả đắc trừ diệt chi như sát oán tặc nhi bất hoan hỷ

 

汝等比丘,勿懷憂惱。若我住世一劫會亦當滅,會而不離終不可得。自利利人法皆具足,若我久住更無所益。應可度者,若天上人間皆悉已度,其未度者,皆亦已作得度因緣。自今已後,我諸弟子展轉行之,則是如來法身常在而不滅也。是故當知,世皆無常,會必有離,勿懷憂也。世相如是,當勤精進早求解脫,以智慧明滅諸癡闇。世實危脆無牢強者,我今得滅如除惡病。此是應捨罪惡之物,假名為身,沒在生老病死大海,何有智者得除滅之,如殺怨賊而不歡喜?

Chư Tăng lúc ấy, những người tu học chưa hoàn tất, thì thấy Phật diệt độ hãy còn bi cảm. Những người mới vào chánh pháp, nghe Phật nói liền được hóa độ, như trong đêm tối mà điện chớp sáng là thấy ngay đường đi. Còn những người tu học đã hoàn tất, đã vượt qua biển khổ, thì chỉ nghĩ rằng, đức Thế tôn diệt độ sao mà mau chóng như vậy.

Thế nên, các thầy Tỷ kheo, phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có kết hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì cả. Ngược lại, cuộc đời như thế thì các thầy phải nỗ lực tinh tiến để sớm cầu tự độ, đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh, không một thứ chi bền bỉ. Như lai được diệt độ thì cũng như trừ được cơn bịnh khủng khiếp. Đây là vật tội ác và đáng bỏ,giả hiệu là thân thể mà lại chìm ngập trong biển cả già bịnh sống chết, như thế người có trí tuệai lại không hoan hỷ khi trừ bỏđược thân này như trừ bỏ kẻ thù?

nhữ đẳng Tỳ Kheo thường đương nhất tâm cần cầu xuất đạo nhất thiết thế gian động bất động pháp giai thị bại hoại bất an chi tướng nhữ đẳng thả chỉ vật đắc phục ngữ

 thời tương dục qua ngã dục diệt độ thị ngã tối hậu chi sở giáo hối

汝等比丘,常當一心勤求出道,一切世間動不動法,皆是敗壞不安之相。汝等且止,勿得復語,時將欲過,我欲滅度,是我最後之所教誨。」

  Các thầy Tỷ kheo, hãy thường nhất tâm, nỗ lực cần cầu tuệ giác giải thoát. Toàn thể vũ trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động, đều là trạng thái bất an và tan rã. Thôi, các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa. Thì giờ sắp hết, Như lai muốn diệt độ. Trên đây là những lời giáo huấn tối hậu của Như lai. 

Phật thùy Bát Niết Bàn lược thuyết giáo giới kinh

佛垂般涅槃略說教誡經()


 


Chúng con kính xin dựa theo bản dịch Hán Việt và Tiếng Việt của cố HT Thích Trí Quang
 Bản tiếng Anh là của Print version published by The Buddhist Association of the United States (BAUS)

Kinh Trường A Hàm