1. Kinh Pháp Môn Căn Bản
(Mùlapariyàya sutta)
Xuất xứ:
Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới gốc cây Sa-la vương
1.
Hạng phàm phu: không thấy, không thuần
thục, không tu tập các pháp của bậc thánh và các bậc chân nhân cho nên:
Khi Tưởng tri các pháp với các tâm hành như sau: (ví dụ địa đại)
Tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ
đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như
là địa đại, người ấy nghĩ: "Địa đại là của
ta" - sanh tâm dục hỷ địa đại. Vì người ấy không liễu tri địa đại
Tưởng tri chúng sanh, chư thiên, sanh chủ, Phạm thiên, Quan Âm
Thiên, Quảng quả Thiên, Thắng giả cũng như trên.
Tưởng tri Không vô biên xứ cho đến Phi Phi tưởng xứ, kiến văn
giác tri, đồng nhất và sai biệt, Niết bàn cũng như vậy.
Hạng hữu học tâm chưa thành tựu, họ nhìn
các pháp với thái độ như sau: (ví
dụ địa đại)
Cần cầu vô thượng an ổn, khỏi khổ ách. thắng tri địa đại là địa
đại. Vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã
không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ: "Địa
đại là của ta", - không dục hỷ địa đại. Vị ấy có thể liễu tri địa đại.
Vị ấy thắng tri đối với chúng sanh, Chư Thiên,
sanh chủ, Phạm thiên, Quan Âm Thiên, Quảng quả Thiên, Thắng giả cũng như trên.
Thắng tri Không vô biên xứ cho đến Phi Phi tưởng xứ, kiến văn
giác tri, đồng nhất và sai biệt, Niết bàn cũng như vậy.
3. Bậc A La Hán: I, II, III, IV
Bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành
thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng,
đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát.
Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng
tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với
địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa
đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. vì vị ấy thắng tri địa đại, không còn
tham dục, sân hận, si mê, nhờ vị ấy đã đoạn trừ tham dục, sân hận, si mê.
Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... phong đại...
sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh
thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức
vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn...
sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn
là Niết-bàn. không dục hỷ, không còn tham dục, sân hận, si mê,
nhờ vị ấy đã đoạn trừ tham dục, sân hận, si mê.
Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thắng tri địa đại là
địa đại. Ngài không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với
địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa
đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. vì Như Lai đã liễu
tri địa đại. Vì Như Lai biết rằng “Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già chết
đến với loài sinh vật”, Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly
tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn
chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Như Lai thắng tri thủy đại... hỏa
đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn,
Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với
Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn
là của Ta" -- không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu,
sanh khởi lên, và già chết đến với loài sinh vật”…..như
trên.
2. Kinh Tất cả các lậu hoặc
(Sabbàsava sutta)
1. Xuất xứ :Savatthi (Xá-vệ), tại
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc)
2.II Người thuyết: Thế Tôn
3.III Người nghe: Các Thầy Tỳ Kheo
4.IV Ý chính: Thế Tôn dạy các
Tỷ-kheo pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc.
5.V Nội dung chính:
6.Thế Tôn giảng sự diệt tận các
lậu hoặc cho
người nghe, người biết vì:Người biết, người thấy: có như lý tác ý và không như lý tác ý.
7.Do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng.
8.Do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.
9. Các phương pháp có thể đoạn trừ lậu hoặc:
•
Có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ
•
_______________
phải do phòng hộ được đoạn trừ,
•
_______________ phải do thọ dụng được đoạn trừ,
•
_______________ phải do kham nhẫn được đoạn trừ,
•
_______________ phải do tránh né được đoạn trừ,
•
_______________ phải do trừ diệt được đoạn trừ,
•
_______________
phải do tu tập được đoạn trừ.
10. Giải thích rộng về các phương pháp đoạn trừ lậu hoặc
a. Tri Kiến:
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ? phàm phu ít nghe,……. các bậc Chơn nhơn nên không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý; vì thế vị ấy tác ý các pháp khiến các dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng; Vị ấy không tác ý các pháp cần được tác ý nghĩa là các pháp khi tác ý mà
dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt
•
Ta có mặt hay không có mặt trong qúa khứ. Ta như thế nào, hình vóc ra làm sao?, ta là ai và ta là gì trong thời quá khứ.
•
Ta sẽ có mặt hay không có mặt ở thời vị lai. Ta hình vóc như thế nào, và ta là gì trong thời vị lai
•
Nghi ngờ về đời sống hiện tại: “ Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?".
•
Vì không như lý tác ý, một trong 6 tà kiến nỗi lên:
•
Ta có tự ngã, ta không có tự ngã, do tự mình tưởng tri ta có tự ngã, do tự mình tưởng tri ta không có tự ngã, không do tự mình, ta tưởng tri có tự ngã, chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ qua báo các thiện nghiệp ác đã làm chỗ này chỗ kia, chính tự ngã của ta là thường trú không biến chuyễn (chấp hữu, chấp thường)
•
Như vậy gọi là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược. Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau.
•
Như lý tác ý:
•
Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, tuệ tri các pháp cần phải tác ý, tuệ tri các pháp không cần phải tác ý. Vị này, nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ý, nên không tác ý các pháp không cần phải tác ý và tác ý các pháp cần phải tác ý.
•
Các pháp không cần phải tác ý là những pháp khi tác ý khiến cho
•
các dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Tỳ kheo nên tác ý các pháp khiến dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi. Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu đã sanh được trừ diệt Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không
cần phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý nên các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.
•
Vị ấy như lý tác ý: "Đây là khổ", như lý tác ý: "Đây là khổ tập", như lý tác ý: "Đây là khổ diệt", như lý tác ý: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ.
b. Phòng hộ:
•
Tỷ-kheo
như lý giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ sáu căn.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ sáu căn,
các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ với sự
phòng hộ sáu căn, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não ấy không còn nữa.
Các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do phòng
hộ được đoạn trừ.
•
Tỷ-kheo như lý giác sát, thọ dụng y phục,
chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự
xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát,
chỉ với mục đích che đậy sự trần truồng. thọ dụng món
ăn khất thực không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức,
không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và
được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hổ trợ phạm hạnh,
nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi
lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn".
•
Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng sàng
tọa, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng,
ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các
loại bò sát, chỉ để giải trừ nguy hiểm của
thời tiết, chỉ với mục đích sống độc cư an tịnh.
•
Vị ấy như lý giác sát thọ dụng dược
phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn chận các cảm giác khổ thống đã sanh, để được ly khổ hoàn
toàn.
•
Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không
thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não có thể
khởi lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn
hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo,
các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do thọ dụng
được đoạn trừ.
• Ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; những cách nói mạ lị , phỉ báng. Kham nhẫn các cảm thọ cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người của thân vì nếu vị ấy không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên và nếu vị ấy kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.
e.
Tránh né:
•
Tỷ-kheo như lý giác sát tránh né voi
dữ, ngựa dữ, bò dữ, tránh né chó dữ,
rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước
nhớp, vũng nước. Có những chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên
lai vãng, những bạn bè ác độc mà nếu giao du thì bị các vị đồng phạm
hạnh có trí nghi ngờ, khinh thường; vị ấy như lý giác sát tránh né chỗ ngồi
không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai vãng ấy
và các bạn độc ác ấy.
•
Tỷ-kheo như lý giác sát không có chấp nhận dục
niệm, sân niệm, hại niệm, đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận,
không cho tồn tại (dục niệm, sân niệm, hại
niệm ấy); không chấp nhận các ác bất thiện pháp luôn luôn
khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không
cho tồn tại (các ác bất thiện pháp ấy). Nếu vị ấy không trừ diệt như vậy, các
lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy trừ diệt
như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các
Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do trừ
diệt được đoạn diệt.
g. Tu tập:
•
Tỷ-kheo như lý giác sát tu tập thất
giác chi, thất giác chi này y viễn
ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; nếu vị ấy không tu
tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy
có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn
hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo,
các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được
đoạn trừ.
VI. Kết luận:
•
Những lậu hoặc nào phải do tri kiến, phòng hộ, thọ dụng, kham nhẫn, tránh né, trừ diệt, tu tập được đoạn trừ đã được đoạn trừ; này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã sống phòng hộ với sự phòng hộ tất cả lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết sử, đã chánh quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau.
3. Kinh thừa tự Pháp
(Dhammadàyàda sutta)
Xuất xứ:
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm),
vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc)
Người thuyết: Thế Tôn
Người nghe: Các Thầy Tỳ Kheo
Nội dung chính:
A. Thế Tôn khuyên các Thầy Tỳ kheo hãy thừa tự pháp, đừng thừa tự tài vật vì hai lý do
1.
Vì lòng thương tưởng Ngài nghĩ cách làm sao đệ tử của thừa tự pháp của Ngài, mà không phải người thừa tự tài vật. vì nếu đệ tự chỉ biết thừa tự tài vật thì không những các đệ tử mà cả Ngài cũng trở thành những người mà người ta nói: “Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự Pháp”.
2.
Nếu các đệ tử là những người thừa tự Pháp của Thế Tôn, không phải là những người thừa tự tài vật, thời không những các đệ tử mà cả Thế Tôn cũng trở thành những người mà người ta nói: "Cả Thầy và trò là những người thừa tự Pháp, không phải là những người thừa tự tài vật”
3.
Ví dụ: có hai vị Tỳ Kheo, một người với ý nghĩ để diệt cơn đói, mệt lã, kiệt sức đã ăn thức ăn thừa của Thế Tôn bỏ lại. Tỳ Kheo thứ hai mặc dù đói khát, mệt lã, kiệt sức cũng không ăn thức ăn thừa của Thế Tôn. Thế Tôn tán vị Tỳ Kheo thứ hai vì lâu ngày, vị ấy sẽ lâu ngày, ít dục, biết đủ, khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn
B. Thầy Xá Lợi Phất rộng thuyết:
1.
như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly mà các đệ tử không tùy học viễn ly?
Này chư Hiền, ở đây vị Đạo Sư sống viễn ly các đệ tử không tùy học viễn ly. Những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ, và họ sống trong sự đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.
2. Có ba
trường hợp mà các Thượng Toạ Tỳ Kheo, các Trung Toạ Tỳ Kheo, các vị mới thọ Tỳ Keo đáng bị quở trách:Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử
không tùy học viễn ly; Và những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai; Và họ sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba,
3. Và như thế nào, vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly?
Vị Đạo Sư sống viễn ly các đệ tử tùy học viễn ly. Những pháp nào, vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ; và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn ly.
4. Có ba trường hợp mà các Thượng Toạ Tỳ Kheo, các Trung Toạ Tỳ Kheo, các vị mới thọ Tỳ Keo đáng được tán thán:
Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, Và những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai. Và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba.
5. Các ác pháp cần phải trừ diệt:
Tham, sân, phẫn nộ, hiềm hận, giả dối, não
hại, tật đố, xan lẫn, man trá, phản bội, ngoan cố, bồng bột nông nổi, mạn, tăng thượng mạn, kiêu, phóng dật, được diệt trừ bằng con đường Trung đạo khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. đó là con đường Thánh tám nghành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Đại ý:
Ý chính: Phật dạy
các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự
Pháp, đừng là những người thừa tự tài vật.
4. Kinh Sợ hãi
khiếp đảm
(Bhayabherava sutta)
1.
Xuất xứ: Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
2.
Người thuyết: Thế Tôn
3.
Nguời nghe: Bà la môn Jannusoni
4.
Duyên khởi: bắt nguồn từ sự suy nghĩ của Bà la môn Jannusoni rằng thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! ông nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.
5.
Nội dung: Thế Tôn cũng đồng ý với Bà la môn thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư!Ngài nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.
6.
Thế Tôn dạy thêm, Sa môn hay Bà la môn nào thân nghiệp, khẩu nghiệp không, ý nghiệp không thanh tịnh, có mạng sống không thanh tịnh sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước các pháp trên không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên.
7.
Thế Tôn tự xét mình không có những bất thiện pháp trên nên Ngài không sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi khi sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu
8.
Sa môn, Bà la môn nào có tham dục, ái dục cường liệt, sân hận ác ý, hôn trầm thuỵ miên chi phối, dao động tâm không an tịnh, nghi hoặc do dự, khen mình chê người, run rẩy sợ hãi, ham muốn lơi dưỡng, cung kính danh vọng, biếng nhác kém tinh tấn, thất niệm không tỉnh giác, không định tĩnh tâm tán loạn, liệt tuệ, đần độn, sống tại trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu vì tâm nhiễm trước các bất thiện pháp trên, vị Sa Môn, Bà la môn chắc chắn làm cho sự hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Thế Tôn không có các pháp bất thiện trên vì Ngài thành tựu trí tuệ. Ngài là
một trong những bậc Thánh thành tựu trí tuệ, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu vì thế Ngài tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
9.
Trong những đêm 14,15,8 mỗi nữa tháng Ngài đi kinh hành
qua lại ở những nơi hãi hùng, lông tóc dựng ngược như tự miếu tại các thảo viên, rừng núi, các cây cối, Ngài trừ diệt sự sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi đi kinh hành.
Khi đang đứng, ngồi, hay nằm, mà sự sợ hãi đến, Ngài trừ diệt sự sợ hãi ấy trong khi đang đứng, ngồi, hay nằm.
10. Ngài tinh cần, tinh tấn, không lười biếng, an trú chánh niệm, không có loạn, thân được khinh an, không dao động, tâm được tịnh tĩnh, chuyên nhất. Ngài đắc tứ thiền, chứng tam minh, vô minh diệt, minh sanh: bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ngài sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần.
11. Do
quán sát hai mục đích tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Tự thấy hiện tại lạc trú và lòng thương tưởng chúng sanh.
Pháp số: Tứ thiền, Tam minh
5. Kinh Không uế nhiễm
(Anangana sutta)
I.
Xuất xứ: Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc)
II.
Người thuyết: Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất)
III.
Người nghe: Các Thầy Tỳ Kheo
IV. Duyên khởi:
V.
Nội dung: Bốn hạng người
1.
Hạng có cấu uế, không biết mình có cấu uế.
Ví dụ một cái bát đồng được mua ở chợ về, bị vất vào nơi bụi bặm, không được lau chùi sạch sẽ thường xuyên.
Hạng này được cho là hạ liệt. Vì không biết mình có cấu uế Người này sẽ không khởi lên ước muốn, không cố gắng, không tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi còn có tham, sân, si, cấu uế, ô nhiễm.
2.
Hạng có cấu uế, nhưng tuệ tri mình có cấu uế như cái bát dơ được mua về, được lau chùi sạch sẽ thường xuyên.
Hạng này được cho là ưu thắng vì biết mình có uế nhiễm.
Người này sẽ khởi lên ước muốn, sẽ cố gắng, sẽ tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi không còn tham, sân, si, cấu uế, ô nhiễm.
3.
Hạng không có cấu uế nhưng không biết mình không có cấu uế như cát bát sạch được mua ngoài chợ về, bị vất vào nơi bụi bặm, không được lau chùi.
Hạng này được cho là hạ liệt vì không biết mình không có uế nhiễm nên Người này sẽ tư niệm tịnh tướng. Do tư niệm tịnh tướng, tham sẽ làm ô nhiễm tâm của người này. Người này sẽ từ trần, trong khi còn có tham, sân, si, cấu uế, ô nhiễm.
4.
Hạng người không có uế nhiễm biết mình không có uế nhiễm như cái bát sạch mua từ chợ về được sử dụng và lau chùi thường xuyên.
Hạng này được cho là ưu thắng vì Người này sẽ không tư niệm tịnh tướng. Do không tư niệm tịnh tướng, tham sẽ không làm ô nhiễm tâm người này. Người này sẽ từ trần, không có tham, sân, si, cấu uế, ô nhiễm.
Ngài Moggallana hỏi đồng nghĩa với cái gọi là cấu uế là gì?
Ngài Sariputta trả lời rằng các ác bất thiện pháp, cảnh giới của dục là đồng nghĩa cái gọi là cấu uế
Phẩn nộ và bất mãn cả hai thuộc về cấu uế. Khi một Tỳ Kheo có tâm phẩn nộ và bất mãn vì những gì mình mong muốn lại xảy ra không đúng như mình mong muốn như là:
•
Khi phạm giới, không muốn ai biết mình phạm giới.
•
Khi phạm giới, mong người khác quở trách ở chỗ kín đáo
•
Khi phạm giới, mong Tỳ kheo đồng đẳng quở trách, không phải Tỳ kheo không đồng đẳng.
•
Mong rằng bậc Đạo sư hỏi ta nhiều lần trong khi giảng pháp hơn là hỏi những người khác.
•
Mong rằng được dẫn đầu chúng tăng khi đi vào làng khất thực.
•
Mong rằng tại chỗ ăn ta được ngồi chỗ tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất, mong rằng các Tỳ kheo khác không được hưởng giống ta.
•
Mong rằng ta thuyết pháp cho các Tỳ kheo tụ tập tại ngôi tịnh xá mà không phải Tỳ kheo khác.
•
Mong rằng ta thuyết pháp cho Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, tại ngôi tịnh xá, chớ không phải là một Tỳ kheo khác.
•
Mong rằng các Tỳ kheo cung kính, lễ bái cúng dường ta, chớ đừng cúng dường lễ bái Tỳ kheo khác.
•
Mong rằng các Tỳ kheo ni, Nam, nữ cư sĩ cung kính tôn trọng lễ bái cúng dường ta mà không làm thế với các Tỳ kheo khác.
•
Mong rằng ta được nhận được các y phục, đồ ăn khất thực, các sàng toạ, các dược phẩm trị bệnh tối thắng, mà các Tỳ kheo khác không được như thế.
Đối với Tỷ-kheo nào chưa đoạn trừ cấu uế cho dù có sống nơi thanh vắng, khất thực thứ lớp, mặc y phấn tảo, cũng không đáng tôn sùng. Tỳ kheo nào đã đoạn trừ cấu uế dù không khổ hạnh, cũng đáng được tán dương.
Đối với những ai xuất gia chỉ vì sinh sống, không phải lòng tin, gian nguỵ, xảo trá, khi cuống, trạo cữ, kiêu mạn, dao động, lắm lời, tạp thoại, không hộ trì các căn, không tiết độ trong ăn uống, không chú tâm tỉnh giác, không tha
thiết với hạnh Sa môn, không nhiệt thành tôn trọng Phật pháp, ưa sống sung túc, biếng nhác, dẫn đầu về đoạ lạc, chối bỏ trọng trách sống viễn ly, giãi đãi không tinh tấn, lãng quên không chú niệm, không định tâm, tâm tán loạn, liệt tuệ, đần độn. Tôn giả Sariputta biết tâm của hạng người này như là tâm của Tôn giả.
Nếu ngược lại, những vị này sau khi nghe pháp môn này của Tôn giả Sariputta, như được uống nếm pháp vị này với tâm mình khiến cho vượt khỏi bất thiện và an trú vào trong chánh thiện. Như một người sau khi gội đầu xong đặt một vòng hoa thanh khiết lên đầu mình.
Đại ý: Ngài Xá Lợi Phất
thuyết giảng về bốn hạng người trên đời và các tâm cấu uế do phẩn nộ và bất mãn gây
ra.
6. Kinh Ước Nguyện
(Akankheyya
sutta)
I. Địa điểm:
Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
III. Nội dung:
Thế Tôn dạy, nếu một Tỳ kheo có ước nguyện:
•
Mong rằng các đồng phạm hạnh mến thương, yêu quý, cung kính và tôn trọng.
•
Mong rằng được các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng toạ và dược phẩm trị bệnh.
•
Mong rằng những người đã tạo ra những vật dụng mà ta đang hưởng thọ được quá báo lớn, được lợi ích lớn.
•
Mong rằng bà con huyết thống, khi chết và mệnh chung nghĩ đến ta với tâm hoan hỷ và nhờ vậy được qủa báo lớn, lợi ích lớn.
•
Mong được nhiếp phục lạc và bất lạc, chớ không bị bất lạc nhiếp phục Mong rằng luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên!
•
Mong được nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi
•
Mong rằng luôn luôn
nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!
•
Mong rằng, tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú!
•
Mong được an trú trong cỏi thiền Sắc và Vô sắc giới
•
Mong được trừ diệt ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn bị đọa lạc, chắc chắn hướng đến Chánh giác!
•
Mong rằng trừ diệt ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, chứng được Nhứt Lai.
•
Mong rằng, trừ diệt năm hạ phần kiết sử chứng được Niết-bàn ngay tại cảnh giới ấy, không còn trở lui thế giới này nữa!
•
Mong chứng được các loại thần thông: Hoá ra nhiều thân, đi trên không, độn thổ, biến hình, đi ngang qua núi,
sông, có thể rờ chạm mặt trăng và mặt trời v.v.
•
Mong được có thiên nhĩ
•
Mong được có tha tâm thông
•
Mong được thành tựu túc mạng minh
•
Mong được thành tựu tuỳ nghiệp thú trí
•
Mong diệt trừ lậu hoặc
•
Muốn thành tựu các ước nguyện ấy, Tỳ kheo cần phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại trú xứ không tịnh.
Đại ý: Thế Tôn dạy các Thầy Tỳ kheo nếu muốn ước nguyện của mình được như ý thì hãy thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại trú xứ không tịnh.
Thế Tôn cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của giới luật, nền tảng về sự tu tập của một Tỳ Kheo.
7. Kinh Ví dụ tấm vải
(Vatthùpama
sutta)
I.
Xuất xứ: Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc)
II.
Người thuyết: Thế Tôn
III. Người nghe: Các Thầy Tỳ kheo
IV. Nội dung: Thế Tôn dạy cỏi
ác sẽ chờ đợi một tâm ô nhiễm như một tấm vải cấu uế,
nhiễm bụi bị nhúng vào thùng thuốc nhuộm màu này hay màu khác, bị loang
lổ không đẹp.
•
Những cấu uế của tâm là: 16 cấu uế
Tham, sân,
phẩn, hận, hư nguỵ, não hại,
tật đố, xan tham, man trá, khi cuống, ngoan cố, cấp tháo, mạn, quá mạn, kiêu, phóng dật.
•
Nếu một vị Tỳ kheo biết tâm mình có cấu
uế vị ấy đoạn trừ các tâm cấu uế ấy. và khi tâm cấu uế
ấy đuợc diệt trừ vị ấy thành tựu thành tựu lòng tin tuyệt đối, đối với Phật, Pháp,
và Tăng. Đến giai đoạn này, Tỳ kheo ấy có
sự từ bỏ, có sự diệt trừ, có sự giải thoát, có sự đoạn trừ, có
sự xả ly, chứng được nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, được sự hân hoan liên hệ đến
pháp. từ hân hoan, hỷ sanh, từ hỷ thân được
khinh an, thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc thọ, tâm được Thiền định.
•
Với một Tỳ kheo được giới, pháp, tuệ như
vậy cho dù được ăn gạo thơm và các thức ăn khác cũng không vì vậy mà bị chướng
ngại. Như như một tấm vải cấu uế,
nhiễm bụi, nếu bỏ trong nước sạch, trở thành thanh tịnh sạch sẽ,
như bỏ vào lò lửa trở thành thanh tịnh sạch sẽ.
•
Vị ấy an trú, biến mãn một
phương, phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư, cùng
khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với
tâm câu hữu với từ, bi, hỉ, xả, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân. Đạt đến
tâm giải thoát, tuệ giải thoát của bậc A la hán.
•
Khi ấy Bà la môn
Sundarika Bharadvaja đang ngồi không xa Thế Tôn, hỏi
Thế Tôn rằng có đến sông Bahuka, một con sông được người đời
tin rằng ai tắm ở sông có thể gột sạch ác nghiệp của mình, và đem lại nhiều công đức. Thế Tôn trả lời rằng cho dù tắm
hết tất cả con sông đi nữa cũng không gột sạch hết ác
nghiệp. Đối với một người sống thanh tịnh,
ngày nào cũng là ngày tốt, ngày lành. Vậy chỉ nên tắm trong tịnh nghiệp mới được
sống an vui.
•
Bà la môn vô
cùng hoan hỷ với lời dạy của Thế Tôn, phát tâm xuất gia với Phật,
không lâu sau ông chứng thánh quả, thành một bậc A la hán.
V.
Đại ý:
Thế Tôn đưa ra ví dụ tấm vải để nói rỏ sự khác nhau giữa một tâm ô nhiễm và một tâm thanh tịnh.
(Sallekha sutta)
Xuất xứ: Savatthi (Xá-vệ),
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc)
Nhân vật: Thế Tôn thuyết pháp cho tôn giả Mahacunda về thế nào là sống đoạn giảm
Nội dung:
Tôn giả Mahacunda bạch
Thế Tôn, trên đời có nhiều quan điểm liên hệ đến ngả và hoặc thế giới. Người mới tác ý có thể bỏ ngay những kiến chấp ấy
không?
Thế Tôn dạy nếu có những
loại sở kiến liên hệ đến ngã luận hay thế giới luận, - chỉ
cần quán sát chúng với trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cài này không phải tự ngã của tôi", như vậy mớ sự đoạn trừ,
xã ly những sở kiến (kiến chấp) ấy
Thế Tôn dạy một Tỳ Kheo chứng tứ thiền, không vô biên
xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, mà cho rằng mình
sống với đoạn giảm. đó không phải là đoạn
giảm, mà chúng được gọi là tịch tịnh trú trong giới luật bậc
thánh.
Như thế nào là sống với đoạn giảm?
Là làm những điều ngược lại 44 cấu
uế dưới đây:
1.
Tác
hại; 2. sát sinh; 3. lấy của không cho; 4. tà hạnh; 5. Nói dối;
6. Hai lưỡi; 7. Nói độc
ác; 8. Nói phù phiếm;
9. Tham dục; 10. Sân; 11. Tà kiến; 12. Tà tư duy; 13. Tà ngữ; 14. Tà nghiệp; 15. Tà mạng; 16. Tà tinh tấn; 17. Tà niệm; 18. Tà định; 19. Tà trí; 20. Tà giải thoát; 21. Hôn trầm thuỵ miên; 22. Trạo hối; 23. Nghi hoặc; 24. Phẫn nộ;
25. Oán hận; 26. Hư nguỵ; 27. Não hại; 28. Tật đố; 29. Xan tham; 30. Man trá; 31. Khi cuống*; 32. Ngoan cố;
33. Cấp tháo**; 34. Khó nói;
35. Ác hữu; 36. Phóng dật;
37. Bất tín; 38. Không xấu hổ; 39. Không sợ hãi;
40. Nghe ít; 41. Biếng nhác; 42. Thất niệm; 43. Liệt tuệ; 44. Nhiễm thế tụ, cố chấp tư kiến, tạnh khó
hành xả.
Muốn diệt trừ cấu uế thì cần khởi tâm làm những
điều ngược lại những cấu uế giống như có con đường ghồ gề, có
một con đường bằng phẳng khác đối trị. Ví dụ, kẻ khác làm hại, mình không làm hại. Kẻ khác sát sanh, mình đây không sát sanh.
Tất cả tâm cấu uế đều có những
đức đối trị nó như sát sanh sẽ có không có sát sanh để đối trị. Sống với đoạn giảm chính là pháp môn
giúp chúng ta hướng thượng, là pháp môn đưa đến giải thoát.
Đại ý: Thế
Tôn bác bỏ những quan điểm cho rằng chứng đắc các tầng thiền là viễn ly hay đoạn
giảm. Ngài giải thích cách tu tập như thế
nào để đoạn giảm phiền não, vô minh trong giáo lý của
Ngài.
9. Kinh Chánh tri kiến
(Sammàditthi sutta)
Xuất xứ: Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc)
Nhân vật: Tôn giả Sariputta thuyết pháp cho các Thầy Tỳ kheo
Duyên khởi:
Nội dung:
Thiện và bất thiện:
Khi Thánh đệ tự tuệ tri được bất thiện,
căn bổn của bất thiện. Tuệ tri được
thiện, căn bổn của thiện. Thánh đệ tử ấy
có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành
tựu diệu pháp này.
Thế nào là bất thiện, căn bổn của bất thiện?
Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân, tà kiến là bất
thiện.
Căn bổn của bất thiện là tham, sân, si.
Thế nào là thiện, căn bổn của thiện?
Không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các
dục, không nói láo, không hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữ, không
tham, không sân, không si, là thiện.
Căn bổn của thiện là không tham, không sân, không si.
Tuệ tri được thiện và bất thiện, căn bốn của thiện
và bất thiện, sẽ đoạn trừ tham, sân, mạn tuỳ miên “Tôi là”, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận
khổ đau ngay trong hiện tại.
Các Thầy Tỳ kheo hỏi Ngài Sariputta có pháp môn nào
khác giúp vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng
tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Tôn giả Saripputta giảng thêm về những pháp môn
khác:
Thức ăn:
Vị Thánh đệ tử tuệ tri thức ăn, tập khởi của
thức ăn, sự đoạn diệt của thức ăn, con đường
đưa đến sự đoạn diệt của thức ăn.
Có bốn loại thứ ăn khiến
chúng sanh đã sanh được an trú, các loài hữu tình sẽ sanh được hổ trợ cho sanh,
đó là đoàn thực (thô hay tế), xúc thực, tư niêm thực, thức thực. Từ tập khởi của ái có tập
khởi của thức ăn, Thánh Đạo Tám Ngành là con đường
đưa đến đoạn diệt của thức ăn.
Tứ diệu đế:
Khi Thánh đệ tử tuệ tri sanh, già, bệnh, chết, sầu
bi khổ ưu não, cầu
không được, năm thủ uẩn là Khổ. Tuệ tri tập
khởi của khổ chính là ái, ái đưa đến tái sanh, cùng
khởi hỷ dục và tham hướng đến tái sanh.
Khởi hỷ dục tham tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái,
hữu ái, phi hữu ái. Đoạn diệt khổ chính
là ly tham, không có dư tàn, sự quăng bỏ, từ bỏ,
giải thoát, vô chấp khát ái ấy. Thánh đạo
tám ngành chính là con đường đưa đến khổ diệt.
Già và
chết:
Khi Thánh đệ tử tuệ tri sự già cả, suy lão, rụng răng, tóc bạc da nhăn, tuổi thọ ngắn lại, bại hoại các căn
trong từng loại hữu tình, đó chính là sự già.
Sự từ trần, huỷ hoại, hoại diệt, tử biệt, huỷ hoại các uẩn,
vất bỏ hình hài, như vậy gọi là chết. Từ
sự tập khởi của sanh có sự tập khởi của già chết. Thánh đạo tám ngành chính là con đường
đưa đến đoạn diệt của già chết.
Sanh:
Nếu có sự xuất hiện, sự sanh, hiện khởi, hiện diện,
hiện hành các uẩn, tụ đắc các xứ trong bất cứ hữu tình giới nào, đó gọi
là sanh. Từ sự
tập khởi của hữu có sự tập khởi của sanh.
Từ sự đoạn diệt của
hữu, có sự đoạn diệt của sanh. Thánh đạo tám ngành là con đường đưa đến đoạn diệt của sanh.
Hữu:
Tuệ tri hữu có ba: dục hữu, sắc hữu,
vô sắc hữu. Từ tập khởi của
thủ có tập khởi của hữu. Từ đoạn diệt của
thủ có sự đoạn diệt của hữu. Thánh đạo tám ngành …………. của hữu.
Thủ:
Tuệ tri thủ có bốn: dục thủ, kiến thủ,
giới cấm thủ, và ngả luận thủ.
Từ tập khởi của ái, có tập khởi của
thủ. Từ đoạn diệt của
ái có đoạn diệt của thủ. Thánh đạo tám ngành …………. của
thủ.
Ái:
Tuệ tri ái có sáu loại: sắc,
thanh, hương, vị, xúc, và pháp ái.
Từ tập khởi của thọ có tập khởi của ái.
Từ đoạn diệt của thọ có đoạn diệt của ái và Thánh
đạo tám ngành ……….. của ái.
Thọ:
Tuệ tri thọ có sáu loại: thọ do nhãn xúc
sanh, do nhĩ xúc sanh, do tỷ xúc sanh, do thiệt xúc sanh, do thân xúc sanh, do ý
xúc sanh. Từ tập khởi của xúc
có tập khởi của thọ. Từ đoạn diệt của
xúc có đoạn diệt của thọ và Thánh đạo tám ngành ……… của thọ.
Xúc:
Tuệ tri có sáu loại xúc: nhãn,
nhĩ, tỷ, thiết thân, ý xúc. Từ tập khởi của sáu
nhập có tập khởi của xúc, từ đoạn diệt của sáu nhập
có đoạn diệt của xúc và Thánh đạo tám ngành …….. của xúc.
Nhập:
Tuệ tri Nhập có sáu loại: Nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhập. Từ tập khởi của
danh sắc có sự tập khởi của sáu nhập. Từ sự đoạn diệt của
danh sắc có sự đoạn diệt của sáu nhập. Thánh đạo tám ngành ………. sáu nhập.
Danh sắc:
Tuệ tri danh có bốn loại: Thọ, tưởng,
tư, xúc; tuệ tri sắc gồm có tứ đại kết hợp tạo thành, như vậy là danh sắc. Từ tập khởi của
thức có tập khởi của danh sắc; từ sự đoạn diệt của thức có đoạn diệt của
danh sắc và Thánh đạo …………….của danh sắc.
Thức:
Tuệ tri Thức có sáu loại: nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. Từ tập khởi của hành
có tập khởi của thức; từ đoạn diệt của hành có đoạn diệt của
thức. Thánh đạo
tám ngành ……….. của thức.
Hành:
Tuệ tri hành có ba loại:
thân, ngữ, tâm hành. Từ tập khởi của vô
minh có tập khởi của hành; từ đoạn diệt của vô minh có
đoạn diệt của hành. Thánh đạo tám nghành ……….. của hành.
Vô minh:
Sự không tuệ tri về khổ, tập, diệt, đạo
như vậy gọi là vô minh. Từ tập khởi của lậu hoặc có
tập khởi của vô minh; từ đoạn diệt của lậu hoặc có
đoạn diệt của vô minh. Thánh đạo tám ngành ………..của vô minh.
Lậu hoặc:
Tuệ tri lậu hoặc có ba: dục,
hữu, và vô minh lậu. Từ tập khởi của vô
minh có tập khởi của lậu hoặc.
Từ đoạn diệt của vô minh có đoạn diệt của lậu hoặc và
Thánh đạo tám ngành ……….. của lậu hoặc.
Kết luận:
Vị Thánh đệ tử nào tuệ tri tập
khởi, tuệ tri sự đoạn diệt, tuệ tri con đường
đưa đến sự đoạn diệt của thiện và bất thiện, thức ăn, tứ thánh đế, mười hai nhân
duyên, lậu hoặc, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tuỳ miên,
tẩy sạch sân tuỳ miên, nhổ tận gốc mạn tuỳ miên “Tôi là”, khiến minh khởi lên, diệt tận
khổ đau ngay trong hiện tại. Có lòng tin
Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này. Đây là chánh tri kiến,
có tri kiến chánh trực.
Đại ý: Ngài Sariputta giảng
làm thế nào một Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng
tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
10. Kinh Niệm xứ
(Satipatthàna sutta)
Xuất xứ:
Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (kiềm-ma sắt
đàm) là đô thị của xứ Kuru
Nhân vật: Thế Tôn thuyết pháp cho các Thầy Tỳ kheo
Nội dung:
Bốn niệm xứ:
Quán thân trên thân, quán
thọ trên các thọ, quán tâm trên tâm, quán
pháp trên các pháp.
• Quán
Thân: bao gồm 14 bài tập
•
Hơi thở:
tuệ tri hơi thở ra vô dài ngắn, nông sâu, chậm nhanh. Cảm giác toàn thân, cảm giác an tịnh tôi sẽ thở
ra, thở vô.
•
Bốn oai nghi hay thân hành: Tỳ kheo tuệ tri
trong bốn oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm.
Tỳ kheo biết rỏ tất cả mọi hành động diễn ra, biết rỏ việc mình đang làm.
• Quán
thân bất tịnh: Tỳ kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên cho đến đảnh
tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt.
•
Bốn đại: Tỳ kheo
quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt
các giới: “Trong thân này có địa đại, thuỷ đại, hoả đại và phong đại”.
• Quán
thi thể: Tỳ kheo quan sát thi thể theo
chín pháp quán:
(1) thi thể quăng bỏ ở nghĩa địa
trong một đến ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen và thối
nát,
(2) thi thể …… nghĩa địa bị các loài vật ăn,
(3) thi thể ……ở nghĩa địa, các bộ xương còn
liên kết nhau, còn dính thịt và máu, được các gân cột lại,
(4) thi thể…..nghĩa địa, các bộ xương còn
liên kết nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính
máu, được các gân cột lại,
(5) thi thể…..nghĩa địa, các bộ xương không
dính thịt dính máu, còn được các gân cột lại,
(6) chỉ còn xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia,
(7) thi thể…..nghĩa địa, chỉ còn xương trắng
màu vỏ ốc,
(8) chỉ còn đống xương lâu hơn ba năm,
(9) chỉ còn xương thối trở thành bột. Tỳ kheo quán thân ấy như sau:”Thân này tánh
chất, bản tánh, là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”.
• Quán
thọ: Thế nào là Tỳ
kheo sống quán thọ trên các thọ?
Quán cảm thọ trên thân và tâm gồm ba loại cảm
thọ: khổ, vui, không vui không khổ. Tỳ kheo
tuệ tri từng cảm thọ khổ, vui, không khổ không vui thuộc về vật chất
hay không thuộc về vật chất. Vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ hay ngoại thọ;
hay sống quán thọ trên các nội ngoại thọ.
Vị ấy quán tánh sanh khởi, tánh diệt tận trên các thọ; hay quán tánh sanh diệt trên các thọ. Vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng
hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời.
Quán tâm:
Thế nào là Tỳ kheo sống quán tâm trên tâm?
Tỳ kheo tuệ tri tâm có tham,
sân, si biết tâm có tham, sân, si. Tâm không tham, sân, si biết
tâm không có tham, sân, si. Tuệ tri tâm có hay
không có thâu nhiếp, tán loạn, quãng đại,
hữu hạn, vô thượng, định, giải thoát. Tỳ
kheo đều tuệ tri rỏ.
Quán
pháp: thế nào là Tỳ kheo quán pháp trên các pháp?
Năm triền cái: Ái dục,
sân hận, hôn trầm thuỵ miên, trạo hối,
nghi.
Tỳ kheo nếu nội tâm có năm triền cái tuệ tri nội tâm có năm
triền cái hay nội tâm không có năm triền cái tuệ tri nội tâm
không có năm triền cái. Với năm triền cái chưa
sanh nay sanh khởi vị ấy tuệ tri như vậy; với năm triền cái đã sanh nay được đoạn diệt,
vị ấy tuệ tri như vậy; với năm triền cái đã được đoạn diệt,
tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Năm thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức.
Tỳ kheo suy tư, “Đây là sắc, sắc tập, sắc
diệt; đây là thọ, thọ tập, thọ diệt; đây là
tưởng, tưởng tập, tưởng diệt; đây là hành, hành tập, hành diệt; đây là thức, thức tập,
thức diệt”.
Sáu nội ngoại xứ:
Mắt ————-> Sắc
Tai ————-> Thanh
do duyên sáu nội ngoại xứ
Nhĩ ————-> Hương
kiết sử sanh khởi
Tỷ ————-> Vị
Thân ————-> Xúc
Ý ————-> Pháp
Tỳ kheo quán pháp trên các pháp đối
sáu nội ngoại xứ, vị ấy tuệ tri do duyên mười hai pháp này kiết sử sanh khởi; vị ấy
tuệ tri với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi và với kiết sử đã sanh nay
được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa.
Bảy giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ,
khinh an, định, xả.
Thế nào là Tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp đối
với bảy giác chi?
Ở đây Tỳ kheo nội tâm có niệm giác chi biết nội tâm có niệm
giác chi; nội tâm không có niệm giác chi biết nội tâm không có niệm giác
chi. Với niệm giác chi đã sanh nay được,
nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Vị ấy quán nội tâm như trên
đối với trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định,
xả.
Bốn Thánh Đế: khổ, tập, diệt, đạo
Thế nào là Tỳ kheo quán pháp trên các pháp đối
với Tứ Thánh Đế?
Tỳ kheo như thật tuệ tri: “Đây là khổ”; như thật tuệ tri: “Đây là khổ tập”; như thật tuệ tri: “Đây là khổ diệt”; như thật tuệ tri: “Đây là khổ đạo”.
Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên cả nội
ngoại pháp. Sống quán tánh sanh khởi trên
các pháp hay quán tánh diệt tận trên các pháp. Vị ấy an trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng
đến chánh trí, chánh niệm và vị ấy sống không nương tựa, hay chấp trước một vật
gì trên đời.
Kết luận:
Thế Tôn kết luận rằng nếu Tỳ kheo
nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong vòng bảy năm, sáu năm, năm năm, bốn năm,
ba năm, hai năm, một năm, bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, bốn tháng, ba tháng,
hai tháng, một tháng, nữa tháng. Không cần
gì nữa tháng, chỉ cần trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng hai quả sau đây: Một là chứng
chánh trí ngay trong hiện tại. Nếu còn hữu
dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Thế Tôn thuyết giảng con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho
chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng
ngộ Niết bàn. Đó bốn niệm xứ.