Phẩm Thứ Sáu
Sám Hối
Khi Đại sư thấy bốn phương
Trí thức và thường dân nơi Quảng-Thiều
Đều đến núi nghe pháp, bèn
Thăng tòa bảo chúng: Thiện tri thức này!
Việc này nên từ tự tâm,
Trong tất cả thời, tịnh tâm mình,và
Tự tu hạnh mình, hiểu ngay
Thấy Pháp thân của mình, đây như vầy
Tự thấy Phật trong tâm mình,
Tự độ tự thành, không cần đến đây.
Các ngài đã từ xa xôi
Đến tập hội, có duyên lành với nhau,
Vậy hãy đồng quỳ xuống đây,
Trước tiên tôi sẽ truyền cho năm phần
Hương của tự tánh Pháp thân,
Rồi trao pháp sám hối Vô tướng này.
Chúng đều quỳ, Sư dạy ngay:
Thứ nhất, giới hương, nghĩa là tự tâm
Không
quấy, không ác, không ganh,
Không
cướp, không tham, gọi là giới hương.
Thứ Hai định hương, nghĩa là
Thấy tướng thiện ác tự tâm không mờ.
Ba
là tuệ hương, đó là
Tự tâm không ngại, hằng ngày thường đem
Trí tuệ quán chiếu tự tâm,
Không tạo các ác. Tuy tu điều lành
Mà tâm không vướng mắc vào,
Kính trên nhường dưới, xót thương kẻ nghèo,
Gọi là tuệ hương như trên.
Bốn giải thoát hương, tự tâm như vầy
Không vin theo duyên, hay là
Tự tại vô ngại, không suy nghĩ lành,
Ác, gọi là giải thoát hương.
Năm giải thoát tri kiến hương, đó là
Tự tâm không theo ác, lành,
Không chìm nơi không, kẹt nơi tịch, mà
Cần học rộng nghe nhiều, và
Biết tự tâm thông đạt lời Thế Tôn,
Hòa ánh sáng độ mọi người,
Tâm không nhân ngã thẳng nơi Bồ đề,
Chơn tánh không bị đổi dời.
Là giải thoát tri kiến hương đấy mà
Thiện tri thức! Loại Hương này
Tự xông bên trong, chớ tìm ngoài thân.
Nay tôi vì các người mà
Trao bài pháp sám hối Vô tướng, và
Diệt tội ba đời, khiến cho
Được ba nghiệp thanh tịnh. Xin nói rằng:
- “Đệ
tử chúng con, xưa nay
Từ
niệm trước, niệm này và niệm sau,
Mỗi
niệm không bị nhiễm ô,
Từ
trước có bao ác mê nghiệp hành,
Đều
xin sám hối trong tâm,
Nguyện
một lần tiêu diệt, không bao giờ
Khởi lại. Đệ tử chúng con,
Từ niệm trước, niệm này rồi niệm sau,
Ngay trong mỗi niệm nơi đây
Không bị dối trá, kiêu làm nhiễm ô,
Từ trước có bao nhiêu màn
Ác nghiệp dối trá kiêu căng nay đều
Sám hối, xin nguyện một lần
Tiêu diệt, và không bao giờ khởi lên.
Đệ
tử chúng con, xưa nay
Từ niệm trước, niệm này và niệm sau,
Mỗi niệm không bị ghét ganh
Làm nhiễm ô, Từ trước bao ác lầm
Đều Sám hối, nguyện một lần
Tiêu diệt, và không bao giờ khởi lên”.
Thiện tri thức! Trên đây là
Pháp sám hối Vô tướng. Sao gọi là
Sám? Sao là hối? Sám là
Sám tội trước, từ trước bao các điều,
Ác nghiệp, các tội u mê
Kiêu mạn dối trá ghét ganh, trong đời …
Đều sám hối cả, nhớ rằng
Vĩnh viễn không tái phạm, là Sám đây
Hối là hối lỗi về sau,
Từ nay trở đi, bao nhiêu các điều
Ác nghiệp kiêu mạn, u mê…
Nay đã giác ngộ, đều xin dứt trừ,
Không tái phạm, hối đấy mà
Gọi là sám hối. Còn phàm phu ngu
Chỉ biết sám lỗi trước thôi
Không biết hối lỗi sau, vì cũng như
Không hối tội trước không trừ,
Lỗi sau sanh lại. Tội xưa không trừ,
Tội sau sanh lại, thì sao
Gọi là sám hối được đây như vầy
Đã sám hối rồi, và nay
Phải phát bổn đại nguyện này. Lắng nghe:
Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn.
Tự tánh pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Tự tánh Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.
Tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn.
Tự tánh pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Tự tánh Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.
(Ni Sư Trí Hải)
Thiện tri thức! Vừa nói rằng:
“Chúng sanh vô biên nguyện xin độ” hằng.
Vì sao nói vậy, nghĩa là
Không phải chính Huệ Năng này độ cho.
Chúng sanh trong tâm chính là
Cái tâm dối trá, tâm tà mê, hay
Tâm bất thiện, tâm ghét ganh,
Tâm ác độc, tâm như đây gọi là
Tâm chúng sanh, mỗi người cần
Dùng tự tánh tự độ, đây mới là
Chơn thật độ. Sao gọi là
Tự tánh tự độ? Nghĩa là trong tâm
Có những chúng sanh như là
Tà kiến, phiền não, và ngu si, thì
Đem chánh kiến độ chúng liền
Đã có chánh kiến thì nên phải dùng
Trí Bát nhã đánh si ngu
Mỗi chúng sanh tự độ cho chính mình.
Tà đến lấy chánh độ luôn,
Mê đến lấy ngộ độ cho, như là
Ngu đến lấy trí độ ngay,
Ác đến lấy thiện độ, đây gọi là
Chơn chánh độ. Lại như câu
“Phiền não vô tận thệ xin nguyện trừ”
Là đem trí Bát nhã trong
Tự tánh mà trừ bỏ tâm vọng tà.
“Pháp môn vô lượng nguyện tu”
Là cốt tự thấy tánh, luôn thực hành
Chánh pháp, học tập chánh chơn.
“Phật đạo Vô thượng thệ xin nguyện thành”
Là thường sanh tâm khiêm nhường,
Thực hành Chánh đạo lìa mê, giác liền,
Thường sanh Bát nhã, trừ chơn
Trừ vọng, liền thấy Phật tâm, nói rằng
Bèn thành Phật đạo liền ngay
Thường nhớ nghĩ việc tu hành, như đây
Năng lực của thệ nguyện này
Đã phát bốn hoằng thệ nguyền vừa xong,
Nay tôi lại truyền giới sau:
Ba Quy y Vô tướng cho chúng này:
Quy y giác, lưỡng túc tôn.
Quy y chánh, ly dục tôn. Và rồi:
Quy y tịnh, chúng trung tôn.
Từ nay sẽ xưng Giác làm Phật đi
Sẽ không trở lại quy y
Tà ma ngoại đạo. Cũng vì Ba Ngôi
Tự tánh thường tự chứng minh,
Nên tôi khuyên các Thiện tri thức này
Tự tánh Tam Bảo quy y:
Phật: Giác, Pháp: Chánh, Tăng: là Tịnh đây.
Tự tâm Quy y Giác, thì
Tà mê không sanh, biết tri túc và
Lìa được tài sắc gọi là
Lưỡng Túc Tôn. Tự tâm quy Chánh liền
Trong niệm không tà kiến nên
Không có cái tâm não phiền, ngã nhân,
Tham ái, cống cao, gọi là
Ly Dục Tôn. Tự tâm này Quy y
Tịnh, đối ái dục trần lao
Tự tánh tuyệt đối không ô nhiễm là
Chúng Trung Tôn. Tu hạnh này
Gọi là Tự quy y. Nhưng kẻ phàm
Không hiểu, rồi ngày đêm
Cứ thọ giới tam quy, nhưng nói rằng
Quy y Phật, Phật nơi nào?
Nếu không thấy Phật dựa vào nơi đâu
Quay về? Thành ra nói sai.
Hãy tự quán sát, tâm sai chớ dùng.
Kinh nói rõ Tự quy y
Phật là nương Phật nơi mình, chứ không
Nói quy y Phật khác, và
Phật nơi mình không nương thì không còn
Chỗ nào nương. Tự ngộ khai,
Quy y Tam Bảo tự tâm nơi mình.
Trong điều phục tâm tánh linh
Ở ngoài kính trọng, mọi người, chúng sanh
Gọi là Tự quy y đây
Quy y Tam Bảo tự tâm xong rồi,
Hãy chí thành nghe ba thân
Của Tự tánh Phật. Hãy hòa theo tôi.
Nơi
sắc thân này, quy y Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.
Nơi sắc thân này, quy y ngàn trăm ức Hóa Thân Phật.
Nơi sắc thân này, quy y Viên Mãn Báo Thân Phật.
Nơi sắc thân này, quy y ngàn trăm ức Hóa Thân Phật.
Nơi sắc thân này, quy y Viên Mãn Báo Thân Phật.
(Ni
Sư Trí Hải)
Đại chúng! Sắc thân là nhà
Không thể nói nương về. Nay như vầy
Ba thân Phật ngay tự tâm
Người đời đều có, tự tâm mê chìm,
Không thấy tánh nên đi tìm
Ba thân Phật ngoài, không nhìn thấy trong
Tự thân có ba Phật thân.
Hãy nghe, tôi chỉ thấy ngay như vầy
Ba thân Phật trong tự tâm.
Ba thân từ tự tánh sanh, không vì
Ở bên ngoài mà có đâu.
Sao gọi Thanh Tịnh Pháp Thân? Nghĩa là
Người đời tánh vốn tịnh thanh,
Vạn pháp từ tự tánh sanh, do vì
Suy nghĩ mọi việc ác thì khởi sanh
Mọi hành động ác, cũng vầy
Suy nghĩ việc lành thì sanh hạnh lành.
Như vậy, các pháp đều do
Nơi tự tánh, cũng như trời thường trong,
Mặt trăng, trời thường sáng trưng,
Chỉ vì mây che mà trời tối đen.
Nếu gặp gió thổi mây tan,
Trời đất đều được quang minh, hiện bày.
Người đời tánh thường nổi trôi
Như đám mây kia. Trí như mặt trời,
Tuệ như mặt trăng, cho nên
Trí tuệ thường sáng. Cũng vì chấp mê
Những cảnh bên ngoài, cho nên
Bị những vọng niệm mây đen che mờ
Tự tánh không được quang minh.
Nếu gặp thiện tri thức, nghe được nhiều
Chánh pháp tự trừ vọng mê,
Trong ngoài sáng suốt, rồi thì ngay nơi
Tự tánh vạn pháp hiện bày.
Người kiến tánh cũng vậy. Đây gọi là
Thanh Tịnh Pháp Thân Phật này.
Tự tâm quy y tự tâm đó là
Quy y Phật thật. Như vầy
Tự quy y nghĩa là nay khử trừ
Nơi tự tánh những tâm như
Bất thiện, ganh ghét, a dua, vọng cuồng
Tâm dối trá, tâm khinh người,
Tâm kiêu ngạo tà kiến, cùng hành vi
Bất thiện trong mọi lúc luôn.
Thường tự thấy lỗi mình, không nói điều
Tốt xấu của người khác kia
Ấy gọi là Tự quy y. Cũng vầy
Thường phải có tâm khiêm nhường,
Và luôn kính trọng mọi người, ấy là
Kiến tánh thông đạt, không còn
Trở ngại, là Tự quy y.
Gọi Thiên Bách Ức Hóa Thân là gì?
Khi vạn pháp không nghĩ, thì
Tánh vốn hư không, còn khi khởi từ
Một ý niệm suy lường, thì
Gọi là biến hóa. Cũng vầy nghĩ suy
Việc ác hóa địa ngục ra,
Suy nghĩ việc lành hóa ra thiên đường,
Độc hại hóa ra rắn rồng,
Từ bi hóa Bồ tát ra, và còn
Trí tuệ hóa làm cõi trên,
Ngu si hóa thành hạ phương dưới cùng.
Tự tánh biến hóa rất nhiều,
Người mê không tỉnh giác, nên như vầy
Niệm niệm thường khởi ác ngay,
Thường đi đường ác, nếu quay về lành,
Liền phát sanh trí tuệ đây.
Gọi là tự tánh Hóa Thân Phật này.
Viên Mãn Báo Thân là sao?
Như ngọn đèn có thể trừ ngàn năm
Tối đen, một trí tuệ này
Có thể diệt ngu vạn năm đoạn trường.
Đừng nghĩ chuyện về trước xưa,
Vì việc đã qua không quay trở về.
Luôn thường nghĩ về sau đi,
Niệm niệm sáng tỏ viên minh, viên tròn
Tự thấy bản tánh, ác lành
Tuy khác mà bản tánh thì không hai,
Tánh không hai ấy chính là
Thật tánh. Trong thật tánh không ác lành,
Viên Mãn Báo Thân Phật đây.
Tự tánh khởi niệm ác, thì trừ tiêu
Diệt nhân lành vạn kiếp. Và
Tự tánh khởi một niệm lành, thì tiêu
Trừ hằng hà sa ác luôn,
Thẳng đến Vô thượng Bồ đề. Trong từng
Mỗi niệm tự thấy tánh này,
Gọi là Báo Thân. Thiện tri thức! Nên
Từ Pháp Thân mà suy lường
Tức là Hóa Thân Phật, ngay trong từng
Niệm tự thấy bản tánh đây
Gọi là Báo Thân Phật. Và tự tu,
Tự ngộ, luôn tự tánh công đức là
Quy y chơn thật. Còn đây
Sắc thân bằng da thịt này chỉ như
Cái nhà trọ không thể nương
Ngộ được tự tánh tam thân, mới là
Biết Đức Phật của tự tâm.
Bài tụng Vô tướng mà tôi nói này,
Nếu tụng trì và tu hành,
Tội lỗi nhiều kiếp mê lầm liền tiêu.
Tụng rằng:
Người mê tu phước không tu đạo
Cho rằng tu phước ấy là đạo
Bố thí cúng dường phước vô biên
Ba độc trong tâm xưa nay tạo
Toan đem tu phước mong diệt tội
Đời sau được phước, tội còn nguyên
Chỉ ngay trong tâm trừ mầm tội
Ngay nơi tự tánh chơn sám hối
Được ngộ chơn sám hối Đại thừa
Trừ tà làm chánh liền không tội
Học đạo thường quán nơi tự tánh
Thì liền đồng bậc với chư Phật
Tổ ta chỉ truyền Đốn pháp này
Nguyện cho tất cả đồng thấy tánh
Nếu tương lai muốn tìm Pháp thân
Lìa hết pháp tướng tẩy sạch tâm
Nỗ lực kiến tánh chớ biếng trễ
Niệm xong chợt dứt là xong đời
Nếu ngộ pháp Đại thừa kiến tánh
Chắp tay thành khẩn chí tâm cầu.
Cho rằng tu phước ấy là đạo
Bố thí cúng dường phước vô biên
Ba độc trong tâm xưa nay tạo
Toan đem tu phước mong diệt tội
Đời sau được phước, tội còn nguyên
Chỉ ngay trong tâm trừ mầm tội
Ngay nơi tự tánh chơn sám hối
Được ngộ chơn sám hối Đại thừa
Trừ tà làm chánh liền không tội
Học đạo thường quán nơi tự tánh
Thì liền đồng bậc với chư Phật
Tổ ta chỉ truyền Đốn pháp này
Nguyện cho tất cả đồng thấy tánh
Nếu tương lai muốn tìm Pháp thân
Lìa hết pháp tướng tẩy sạch tâm
Nỗ lực kiến tánh chớ biếng trễ
Niệm xong chợt dứt là xong đời
Nếu ngộ pháp Đại thừa kiến tánh
Chắp tay thành khẩn chí tâm cầu.
(Ni Sư Trí Hải)
Thiện tri thức! hãy tụng trì,
Tất cả theo đó mà tu, như vầy
Thấy được tánh, thì tuy xa
Tôi ngàn dặm vẫn như gần ở bên.
Nếu không nghe lời này, thì
Dù có đối diện cũng ngàn dặm xa.
Chúc đại chúng đi bình an!
Tất cả hoan hỷ phụng hành, ngộ khai.
Hết Phẩm Sáu
Cơ Duyên
Sư đắc pháp ở Hoàng Mai,
Về đến Thiều Châu, thôn Tào Khê này,
Không ai biết. Bấy giờ, nhờ
Nho sĩ Lưu Chí Lược, hay cúng dường
Chí Lược có một người cô
Là Ni Vô Tận Tạng thường tụng Kinh
Đại Niết Bàn. Sư nghe qua,
Sư đã biết ý nghĩa thâm diệu, bèn
Giải nói. Ni cầm quyển Kinh
Hỏi chữ. Sư bảo: - hỏi về nghĩa đi.
Chữ thì không biết. Ni rằng
- Chữ mà không biết làm sao hiểu từ?
Sư dạy: Diệu lý của chư
- Phật can hệ văn tự gì cho chăng?
Ni thật kính phục ngạc nhiên,
Bảo khắp bậc kỳ đức trong làng rằng:
“Đây là bậc Đại sĩ,nên
Thỉnh cúng dường”. Bấy giờ, Tào Thúc Lương
Cháu nội Ngụy Võ Hầu cùng
Đến lễ bái Sư với dân trong làng.
Bấy giờ, Cổ tự Bảo Lâm
Từ cuối đời Tùy bị tàn phế vì
Binh lửa, nay ở nền xưa,
Họ xây lại một ngôi chùa thỉnh Sư
Đến an trú, chẳng bao lâu
Đã thành bảo địa. Sư an trú và
Ở được chín tháng hơn, thì
Lại bị bọn ác nhân săn kiếm tìm.
Sư trốn ở núi phía trên,
Bị bọn bên kia phóng tên đốt rừng.
Sư ẩn thân trong đá mà
Thoát được. Tảng đá ấy nay trên còn
Dấu ngồi kiết già của Sư,
Cùng với lằn y trải ra, dân làng
Gọi tên Đá tỵ nạn đây.
Nhớ lời Ngũ Tổ: Ẩn Hội, dừng Hoài,
Tăng Pháp Hải, người Khúc Giang
Đất Thiều Châu, đến lễ Sư, hỏi rằng:
- Tức tâm tức Phật là sao?
Xin thương xót chỉ dạy cho. Sư rằng:
- Niệm trước không sanh tức tâm,
Niệm sau không diệt tức là Phật ngay.
Thành hết thảy tướng tức tâm,
Lìa hết thảy tướng tức là Phật thôi.
Nếu ta nói cho đủ, thì
Trọn kiếp không cùng. Hãy nghe kệ ta:
Tức tâm là tuệ
Tức Phật là định
Định tuệ quân bình
Ý thường thanh tịnh
Ngộ pháp môn này
Do người tập tánh
Dụng vốn vô sanh
Song tu là chánh.
Tức Phật là định
Định tuệ quân bình
Ý thường thanh tịnh
Ngộ pháp môn này
Do người tập tánh
Dụng vốn vô sanh
Song tu là chánh.
(Ni Sư Trí Hải)
Pháp Hải đại ngộ, bèn làm kệ tán thán:
Tức tâm nguyên là Phật
Không ngộ nên tự khuất
Tôi biết nhân định tuệ
Song tu lìa các vật.
Không ngộ nên tự khuất
Tôi biết nhân định tuệ
Song tu lìa các vật.
(Ni Sư Trí Hải)
Tăng Pháp Đạt người Hồng Châu
Bảy tuổi xuất gia thường trì Pháp Hoa,
Đến lễ Tổ, nhưng đầu không
Chấm đất. Nên Tổ quở rằng: Lạy mà
Đầu không sát đất, sao bằng
Đừng lạy. Trong lòng ngươi cầm nắm luôn
Một vật. Ôm giữ cái gì?
Đáp: - Trì Pháp Hoa ba ngàn bộ hơn.
Tổ nghe và liền dạy rằng
Dù niệm tới vạn bộ, mà hiểu Kinh,
Cũng không lấy làm ngạo kiêu,
Đắc thắng mới là cùng ta đồng hành.
Ngươi tự phụ cho đấy là
Sự nghiệp mà không biết chi lỗi mình.
Hãy nghe kệ của ta:
Lạy cốt bẻ cờ kiêu
Đầu nếu không sát đất
Có ngã tội liền sanh
Quên công phước vô lượng.
Đầu nếu không sát đất
Có ngã tội liền sanh
Quên công phước vô lượng.
(Ni Sư Trí Hải)
Sư lại dạy: - Ngươi tên chi?
Tên Pháp Đạt. Sư dạy rằng- Ngươi tên
Pháp Đạt, nhưng mà chưa từng
Đạt Pháp. Lại nói kệ rằng như sau:
Ngươi nay tên Pháp Đạt
Siêng tụng chưa từng nghỉ
Luống đọc theo âm thanh
Minh tâm mới Bồ Tát
Ngươi nay có nhân duyên
Ta sẽ vì ngươi nói
Tin rằng Phật vô ngôn
Hoa sen từ miệng xuất.
Siêng tụng chưa từng nghỉ
Luống đọc theo âm thanh
Minh tâm mới Bồ Tát
Ngươi nay có nhân duyên
Ta sẽ vì ngươi nói
Tin rằng Phật vô ngôn
Hoa sen từ miệng xuất.
(Ni Sư Trí Hải)
Đạt nghe kệ sám hối thưa:
-Từ nay trở đi, con xin khiêm nhường
Đối
với tất cả mọi người.
Đệ
tử tụng Kinh Pháp Hoa nhưng mà
Chưa
hiểu nghĩa, tâm thường nghi.
Xin
Ngài trí tuệ từ bi giảng bày
-Pháp
Đạt! Tức Pháp đạt thông,
Mà
tâm ngươi không đạt thông điều gì.
Kinh
không nghi, tự tâm nghi.
Ta
hỏi: Kinh này lấy gì làm tông?
- Bạch,
đệ tử căn tánh thường
Tối
chậm lâu nay chỉ theo văn mà
Tụng
niệm đâu có biết tông.
Xin
Hòa thượng dạy cho con thêm nhiều.
Ta không biết chữ, ngươi nên
Thử tụng Kinh một bộ, rồi giảng cho.
Pháp Đạt liền tiếng tụng kinh,
Đến phẩm Thí Dụ, Sư khuyên: Hãy ngừng
Kinh
này vốn lấy nhân duyên
Phật
xuất thế để làm tông. Cho dù
Nói
lắm ví dụ cũng không
Ngoài
ý này. Nhân duyên là sao đây?
Kinh
dạy: “Chư Phật Thế Tôn
Duy
vì một đại sự nhân duyên mà
Hiện ra đời”. Đại sự là
Tri kiến Phaât vậy. Người đời bên ngoài
Thì
mê chấp tướng, bên trong
Thì
mê chấp không. Cho nên Nếu mà
Nơi
tướng mà lìa tướng đây,
Nơi
không mà lìa được không, tức là
Trong
ngoài đều không si mê.
Nếu
như Ngộ được pháp này, ngay trong
Một
niệm tâm sáng tỏ luôn,
Là
ngộ tri kiến Phật như đây và,
Phật là giác. Giác chia ra bốn môn:
Khai GIÁC TRI KIẾN,
Thị GIÁC TRI KIẾN,
Ngộ GIÁC TRI KIẾN,
Nhập GIÁC TRI KIẾN.
(Ni Sư Trí Hải)
Nếu
nghe được khai thị, liền
Được
ngộ nhập, thì giác tri kiến này,
Chơn
tánh xưa nay hiện bày.
Ngươi
thận trọng chớ hiểu lầm ý Kinh,
Và
khi thấy Kinh nói rằng
Khai
thị ngộ nhập, rồi mà cho rằng
Đó
là tri kiến Phật đây,
Còn
ta không có gì. Nay hiểu vầy
Là
hủy báng Kinh, chê bai
Phật
vậy. Vì Phật đã là Phật đây,
Đã
đủ tri kiến thì còn
Khai
mở làm gì. Ngươi nên tin rằng,
Phật
tri kiến ấy chính là
Chỉ tự tâm ngươi, và ngoài ra không
Có Phật nào khác. Bởi vì
Hết thảy chúng sanh tự che lấp màn
Ánh
quang minh của chính mình,
Tham
ái trần cảnh, vì cơ hội ngoài,
Vì
rối loạn bên trong mà
Chịu
rong duỗi, phiền cho Ngài Thế Tôn
Phải
xuất khỏi Tam muội mà
Nói
đủ lời khổ để khuyên hãy dừng
Chớ
hướng ngoại tìm kiếm, thì
Cùng
với Phật không khác, nên gọi là
Khai
Phật tri kiến. Tôi khuyên
Mọi người ngay nơi tự tâm mình, thường
Khai tri kiến Phật ngay luôn
Người đời tạo tội tâm tà, ngu mê,
Miệng lành tâm ác, si nhiều
Tham sân ganh ghét, ngạo kiêu nịnh người,
Tổn người hại vật, như vầy
Tự khai tri kiến chúng sanh ra liền.
Nếu chánh tâm lại, thì thường
Phát sanh trí tuệ, tự mình quán tâm,
Dứt ác làm lành, đó là
Tự khai tri kiến Phật. Ngươi nên từng
Niệm khai tri kiến Phật luôn
Chớ khai tri kiến chúng sanh gọi là
Thế gian. Nếu ngươi cứ chuyên
Khó nhọc giữ niệm không buông cho là
Công phu, thì có khác gì
Loài trâu mến tiếc cái đuôi của mình.
Pháp Đạt hỏi: - Nếu vậy thì
Chỉ cần hiểu nghĩa lý kinh văn này,
Không cần tụng Kinh hay sao?
Sư nói: Kinh có lỗi gì, mà ngăn
Người niệm. Mê ngộ nơi người,
Tổn ích do mình mà thôi. Như vầy
Miệng niệm tâm hành tức là
Chuyển Kinh, miệng niệm nhưng tâm chẳng hành
Tức bị Kinh chuyển nơi tâm,
Hãy lắng nghe kệ của ta đây này:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng Kinh lâu không hiểu
Với nghĩa lý thành thù
Vô niệm niệm là chánh
Có niệm niệm thành tà
Có không không đếm xỉa
Xe trâu trắng thường ngồi.
(Ni Sư Trí Hải)
Pháp Đạt khi nghe kệ liền
Đại ngộ, bất giác lệ rơi, bạch rằng:
- Pháp
Đạt từ xưa đến nay,
Thật
chưa từng chuyển Pháp Hoa, nhưng mà
Lại
bị Pháp Hoa chuyển tâm.
Lại bạch: - Kinh dạy chư hàng Thanh Văn
Đến Bồ Tát đều hợp tâm
Suy lường mà cũng không lường được ngay
Trí Phật. Ngài bảo kẻ phàm
Chỉ cần tự ngộ nơi tâm gọi là
Tri kiến Phật. Và điều này
Tự mình nếu không phải là thượng căn
Thì không khỏi nghi hoặc đâu.
Lại Kinh dạy ba xe: dê, hưu và
Trâu trắng, khác nhau thế nào?
Xin Hòa thượng từ bi khai thị cho.
Sư dạy: Kinh thật rõ ràng,
Chỉ ngươi tự mê. Những người ở trong
Ba
thừa như là: Thanh Văn,
Duyên
Giác, Bồ Tát, những người tam thừa
Sở
dĩ không thể suy lường
Được
trí Phật, lỗi chính là suy lường.
Nhiều
người tận lực cùng nhau
Suy
lường nữa thì lại càng thêm sai,
Phật
vì phàm phu nói đây.
Lý
này nếu không chịu tin vậy thì
Phải
rút lui khỏi giảng đường
Theo
những vị kia trong Kinh, cũng vầy
Không
biết mình trên Xe trâu
Lại
ra ngoài cửa đi tìm ba xe.
Huống
nữa kinh nói rõ ràng
Với
ngươi rằng chỉ Phật thừa mà thôi,
Không
có thừa nào khác đâu,
Dù
nói hai thừa hay ba thừa, và
Đến
vô số phương tiện thì
Diễn
nói thí dụ, nhân duyên, giảng nhiều
Tất
cả pháp này nói lên
Một
Phật thừa duy nhất thôi trong này
Sao
ngươi không tỉnh ngộ ngay
Ba
thừa là giả, vì xa xưa mà
Nói;
Nhất thừa là thật thôi,
Cũng
vì hiện tại này mà nói đây;
Chỉ
dạy ngươi bỏ giả đi
Quay
về thật, khi quay về thật thì
Thật
ấy cũng không có tên.
Nên
biết của cải bao nhiêu báu châu
Đều
thuộc về ngươi, tùy ngươi
Thọ
dụng đến không còn suy nghĩ về
Cha,
con, ngay cũng không còn
Cái
tưởng về thọ dụng kia, gọi là
Trì
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Từ
kiếp này, kiếp khác tay không rời
Kinh,
đêm ngày trì niệm Kinh,
Đạt
nhờ khai phát, vui làm kệ rằng:
Tụng
Kinh ba ngàn bộ
Tào Khê một câu quên
Chưa rõ nghĩa xuất thế
Khó dứt mê nhiều đời
Dê hưu trâu giả đặt
Đầu giữa cuối khéo phô
Ai ngờ trong nhà lửa
Vốn sẵn đấng Pháp Vương.
Tào Khê một câu quên
Chưa rõ nghĩa xuất thế
Khó dứt mê nhiều đời
Dê hưu trâu giả đặt
Đầu giữa cuối khéo phô
Ai ngờ trong nhà lửa
Vốn sẵn đấng Pháp Vương.
(Ni
Sư Trí Hải)
Sư dạy: - Ngươi nay trở đi
Mới đáng gọi là ông thầy niệm Kinh.
Pháp Đạt lãnh hội nghĩa huyền,
Từ đấy tiếp tục tụng Kinh không ngừng.
Tăng Trí Thông, người An Phong
Thọ Châu, lúc đầu xem Kinh Lăng Già
Ngàn lần không hiểu thế nào
Là ba thân bốn trí, nên đến Sư
Đảnh lễ xin giải nghĩa này.
Sư chỉ dạy nói: - Ba thân ấy là:
Thanh tịnh Pháp thân, tánh tông
Viên mãn Báo thân, tức là trí ông.
Thiên bách ức Hóa tức thân,
Hạnh của ông. Nếu lìa tâm tánh mà
Chỉ nói ba thân tức là
Thân không trí, nếu ngộ ba thân này
Không có tự tánh gọi là
Bốn trí Bồ đề. Hãy nghe kệ ta:
Tự tánh đủ ba thân
Phát minh thành bốn trí
Chẳng rời duyên thấy nghe
Tự nhiên lên đất Phật
Ta nay bảo ông biết
Tin chắc tuyệt không mê
Chớ học kẻ tìm gươm [4]
Trọn ngày nói Bồ đề.
Phát minh thành bốn trí
Chẳng rời duyên thấy nghe
Tự nhiên lên đất Phật
Ta nay bảo ông biết
Tin chắc tuyệt không mê
Chớ học kẻ tìm gươm [4]
Trọn ngày nói Bồ đề.
(Ni Sư Trí Hải)
Thông hỏi: - Bốn trí là sao,
Xin cho con được nghe? Sư dạy rằng
- Đã hiểu ba thân tức là
Rõ
luôn bốn trí, sao còn hỏi chi?
Và
nếu lìa ba thân mà
Nói
bốn trí là trí không thân, và
Có
trí như vậy cũng thành
Không
trí. Sư lại dạy bài kệ sau:
Đại viên cảnh Trí là tánh thanh tịnh
Bình đẳng tánh Trí là tâm không tịnh
Diệu quan sát Trí thấy như không
Thành sở tác Trí giống viên cảnh
Năm tám chuyển quả, sáu bảy nhân
Chỉ dùng tên gọi không thật tánh
Nếu cảnh đổi thay tình không đắm [5]
Tha hồ an trú trong đại định
Bình đẳng tánh Trí là tâm không tịnh
Diệu quan sát Trí thấy như không
Thành sở tác Trí giống viên cảnh
Năm tám chuyển quả, sáu bảy nhân
Chỉ dùng tên gọi không thật tánh
Nếu cảnh đổi thay tình không đắm [5]
Tha hồ an trú trong đại định
Là chuyển thức thành trí vậy.
Chuyển năm thức thành Thành sở tác trí,
Chuyển thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí,
Chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí,
Chuyển thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí.
(Ni Sư Trí Hải)
Tuy Thức thứ sáu, bảy là
Chuyển trong nhân, thức thứ năm, tám là
Chuyển ở quả, chỉ chuyển tên
Mà không chuyển bản thể chi đâu nào.
Thông đốn ngộ được tánh trí, trình kệ rằng:
Ba thân: bản thể mình
Bốn trí vốn tâm minh
Thân trí dung không ngại
Theo vật mà hiện hình
Khởi tu đều vọng động
Chấp thủ trái chơn tịnh
Nhờ Sư mà hiểu đạo
Tuyệt hết danh nhiễm ô.
Bốn trí vốn tâm minh
Thân trí dung không ngại
Theo vật mà hiện hình
Khởi tu đều vọng động
Chấp thủ trái chơn tịnh
Nhờ Sư mà hiểu đạo
Tuyệt hết danh nhiễm ô.
(Ni Sư Trí Hải)
Tăng Trí Thường ở Tín Châu,
Quý Cốc đến tham lễ. Sư hỏi rằng:
- Ngươi từ đâu đến? Đáp rằng:
- Đệ tử ở gần Hồng Châu, Bạch
phong,
Đến lễ Hòa thượng Đại Thông,
Nhờ dạy nghĩa kiến tánh thành Phật đây,
Nhưng chưa dứt được nghi ngờ,
Nay xin Hòa thượng dạy cho rõ ràng .
- Đại
Thông Hòa thượng dạy ngươi
Những gì, thử nói ra xem thế nào.
- Dạ,
con tới ba tháng mà
Chưa
được Ngài chỉ dạy gì cả đâu.
Chiều
nọ, cầu pháp thiết tha
Một
mình vào trượng thất nay hỏi Ngài
Bản
tâm bản tánh của con
Là
thế nào. Ngài Đại Thông hỏi rằng:
“Ngươi
có thấy hư không chăng?”
Đáp:
“Thấy”. Hỏi: “Ngươi thấy hư không này
Có
tướng mạo không?”. Con rằng:
“Hư
không vô hình, có đâu tướng gì”.
Ngài
dạy: “Bản tánh của ngươi
Như
hư không, không vật gì thấy đâu.
Và
như thế nên gọi là
Thấy
chơn chánh. Không có luôn vật gì
Có
thể biết được, gọi là
Biết
chơn chánh. Không vàng xanh, ngắn dài,
Chỉ
thấy nguồn gốc tịnh thanh,
Giác
thể viên minh, ấy đây gọi là
Kiến
tánh thành Phật , gọi là
Tri
kiến Phật”. Và Trí Thường nói ngay:
Bạch Hòa thượng, con tuy nghe
Những lời dạy ấy vẫn chưa quyết nghi,
Xin Hòa thượng khai thị cho.
Sư dạy: - Lời dạy vị Sư kia còn
Tri kiến, nên ngươi chưa thông.
Ta nay khai thị cho ngươi một bài:
Không thấy một pháp mà còn cái thấy không
Thì không khác đám mây che mặt trời
Không biết một pháp nhưng còn cái biết không
Cũng như giữa thái hư sanh điện chớp
Thấy biết như vậy càng thêm rối loạn
Nhận thức lầm lẫn thì làm sao hiểu được phương tiện
Ngươi hãy trong một niệm tự biết lỗi
Thì ánh linh quang nơi mình thường hiện rõ.
Thì không khác đám mây che mặt trời
Không biết một pháp nhưng còn cái biết không
Cũng như giữa thái hư sanh điện chớp
Thấy biết như vậy càng thêm rối loạn
Nhận thức lầm lẫn thì làm sao hiểu được phương tiện
Ngươi hãy trong một niệm tự biết lỗi
Thì ánh linh quang nơi mình thường hiện rõ.
(Ni Sư Trí Hải)
Trí Thường vừa nghe kệ xong
Tâm ý khai ngộ, nên trình kệ rằng:
Tự dưng khởi tri kiến
Chấp tướng cầu Bồ đề
Còn giữ một niệm ngộ
Không hết mê lầm xưa
Tánh thể vốn là giác
Luống theo dòng chiếu soi
Không vào thất Tổ sư
Thì vẫn còn mờ mịt.
Chấp tướng cầu Bồ đề
Còn giữ một niệm ngộ
Không hết mê lầm xưa
Tánh thể vốn là giác
Luống theo dòng chiếu soi
Không vào thất Tổ sư
Thì vẫn còn mờ mịt.
(Ni Sư Trí Hải)
Hỏi Sư: - Phật dạy ba thừa,
Lại dạy Tối thượng thừa, con chưa thông
Kính xin Ngài chỉ dạy cho.
-Ngươi
hãy quán tự tâm, không chấp vào
Pháp
tướng ở ngoài như vầy.
Pháp
không bốn thừa, tâm ngươi biệt sai.
Kiến
văn tụng là Tiểu thừa
Ngộ
pháp hiểu nghĩa thì là trung thừa,
Theo
pháp tu hành Đại thừa.
Vạn
pháp đều đầy đủ và đều thông,
Không
nhiễm trước hết thảy đây,
Và
lìa các pháp tướng này,
Vô
sở đắc, Tối thượng thừa như sau:
Thừa
có nghĩa là thực hành,
Không
do bởi miệng luận tranh như vầy.
Hãy
tự tu, chớ hỏi ta.
Hay
trong mọi lúc, tự tâm không dời.
Tăng Chí Đạo, người Quảng Châu,
Nam Hải, bạch: Con từ khi xuất gia,
- Xem Kinh Niết bàn mười năm,
Chưa hiểu đại ý. Xin Ngài dạy cho
Vậy ngươi không hiểu chỗ nào?
- Dạ, con thắc mắc về bài kệ sau:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệc pháp
Sanh diệt diệc dĩ
Tịch diệt vi lạc.
Thị sanh diệc pháp
Sanh diệt diệc dĩ
Tịch diệt vi lạc.
(Các hành là vô thường
Đó là pháp sanh diệt
Sanh diệt đã diệt rồi
Thì tịch diệt là vui).
Đó là pháp sanh diệt
Sanh diệt đã diệt rồi
Thì tịch diệt là vui).
(Ni sư Trí Hải)
Sư hỏi: - Thắc mắc vì sao?
-Bạch, thảy chúng sanh có hai thân là
Nhục thân và Pháp thân đây.
Thân
vật chất thì vô thường, diệt sanh,
Pháp
thân thì vẫn thường còn,
Nhưng
vô tri vô giác. Kinh nói rằng
Sanh
diệt diệt xong hết thì
Tịch
diệt là vui, con không hiểu là
Thân
nào tịch diệt, thân nào
Cảm
thọ cái vui ấy. Nay nếu là
Thân
vật chất, thì lúc khi
Nó
diệt, bốn đại rã tan, toàn là
Khổ,
không thể bảo là vui
Nếu
Pháp thân tịch diệt, thì cũng như
Cỏ
cây, đá, ai thọ vui?
Lại
pháp tánh là thể sanh diệt này,
Năm
uẩn, dụng của diệt sanh,
Đồng
một thể mà có năm dụng này,
Quá
trình sanh diệt là thường
Từ
thể khởi ra dụng vầy là sanh,
Dụng
thâu về thể gọi là
Diệt.
Nếu chấp nhận tái sanh, thì loài
Hữu
sanh chẳng đoạn diệt luôn
Nếu
không chấp nhận tái sanh, thì loài
Hữu
tình vĩnh viễn diệt luôn,
Không
khác vật vô tri vô giác này.
Như vậy hết các pháp đều
Bị Niết bàn (tịch diệt) ngăn cấm rồi,
Sanh không được làm sao vui?
Sư dạy: - Ông là con dòng Thích Ca,
Sao đem tà kiến chấp thường
Chấp đoạn, của ngoại đạo nay luận bàn
Về Pháp Tối thượng thừa này?
Như lời ông nói, thì ngoài sắc thân
Riêng có Pháp thân, cho nên
Cầu tịch diệt, lìa diệt sanh tử này
Ông suy luận rằng Niết bàn
Nếu đã là thường lạc thì có thân
Để thọ dụng cái lạc này.
Chính vì thế sanh ra ôm tử sanh,
Tham đắm thế lạc. Ông nên
Biết Phật vì những người mê muội này
– Năm
uẩn phối hợp nhận lầm
Cái
ta, còn vật khác là ngoài ta,
Tham
sống sợ chết, trôi lăn phiêu trầm
Oan
uổng trong vòng luân hồi
Không
biết chỉ là mộng mơ, giả hư,
Đảo
lại xem Niết bàn là
Thường
lạc là khổ, suốt ngày chỉ theo
Tìm
kiếm cái vui thế gian
-Phật
vì thương xót loài người trên đây
Chỉ
ra chơn lạc Niết bàn.
Niết
bàn chơn lạc trong từng sát na
Không
có hiện tượng diệt sanh,
Cũng
không có hiện tượng sanh diệt nào
Để
chấm dứt. Ấy gọi là
Sự
khởi tịch diệt hiện tiền. Nhưng ngay
Lúc
hiện tiền ấy cũng không
Có
cái suy lường hiện tiền, cho nên
Gọi
là thường lạc (chơn vui).
Lạc
ấy cũng không có ai thọ dùng,
Cũng
không người không thọ dùng,
Đâu
có chuyện một thể năm dụng vầy,
Huống
nữa còn bảo niết bàn
Án
ngữ hết mọi sự, làm cho luôn
Mọi
sự vĩnh viễn không sanh.
Ấy
là chê Phật pháp rồi đó ông.
Hãy nghe kệ của ta:
Vô thượng đại Niết bàn
Viên minh thường tịch chiếu
Phàm ngu cho là chết
Ngoại đạo gọi dứt đoạn
Người cầu pháp Nhị thừa
Lại bảo là vô tác
Đều thuộc về chấp trước
Căn bản của (62) tà kiến
Chỉ là tên giả đặt
Đâu có nghĩa chơn thật
Chỉ có người siêu việt
Liễu tri pháp Niết bàn
Nên không lấy không bỏ
Vì biết rằng năm uẩn
Và ngã ở trong đó
Cùng những sắc tượng ngoài
Và tất cả âm thanh
Đều như mộng như huyễn
Không phân biệt Thánh phàm
Không cho rằng mình hiểu (Niết bàn)
Trừ cả hai biên chấp (có, không)
Bỏ luôn quá, hiện, vị
Thường sử dụng giác quan
Không khởi tưởng (sử dụng)
Phân biệt tất cả pháp
Không khởi tưởng “phân biệt”
Lửa cháy thấu đáy biển
Vào thời gian kiếp hoại
Gió mạnh núi va nhau
Mà Niết bàn chơn lạc
Vẫn không hề thay đổi
Ta nay chỉ gượng nói
Để ông bỏ tà kiến
Ông đừng chấp lời ta
Họa may hiểu vài phần.
Viên minh thường tịch chiếu
Phàm ngu cho là chết
Ngoại đạo gọi dứt đoạn
Người cầu pháp Nhị thừa
Lại bảo là vô tác
Đều thuộc về chấp trước
Căn bản của (62) tà kiến
Chỉ là tên giả đặt
Đâu có nghĩa chơn thật
Chỉ có người siêu việt
Liễu tri pháp Niết bàn
Nên không lấy không bỏ
Vì biết rằng năm uẩn
Và ngã ở trong đó
Cùng những sắc tượng ngoài
Và tất cả âm thanh
Đều như mộng như huyễn
Không phân biệt Thánh phàm
Không cho rằng mình hiểu (Niết bàn)
Trừ cả hai biên chấp (có, không)
Bỏ luôn quá, hiện, vị
Thường sử dụng giác quan
Không khởi tưởng (sử dụng)
Phân biệt tất cả pháp
Không khởi tưởng “phân biệt”
Lửa cháy thấu đáy biển
Vào thời gian kiếp hoại
Gió mạnh núi va nhau
Mà Niết bàn chơn lạc
Vẫn không hề thay đổi
Ta nay chỉ gượng nói
Để ông bỏ tà kiến
Ông đừng chấp lời ta
Họa may hiểu vài phần.
(Ni Sư Trí Hải)
Chí Đạo nghe đại ngộ ngay,
Vui mừng đảnh lễ tạ mà lui ra.
Thiền Sư Hành Tư, họ Lưu,
Sanh An Thành, người Cát Châu, nghe về
Tiếng Tổ, đến lễ, hỏi rằng:
- Làm gì khỏi rơi vào giai cấp vầy?
Tổ hỏi: - Ông thường làm gì?
Đáp: - Thánh đế cũng chẳng làm nữa đâu.
- Vậy ông thuộc giai cấp nào?
- Thánh đế không làm, thì giai cấp nào.
Tổ nhận bậc Pháp khí đây,
Cho làm thủ chúng. Tổ khuyên Hành Tư:
- Ông
nên du hóa một phương,
Chớ để đứt mất giống Như Lai này.
Hành Tư khi đắc pháp rồi,
Trở về Cát Châu, núi Thanh Nguyên mà
Hoằng dương, sau khi mất Ngài
Được phong thụy Hoằng Tế Thiền Sư đây.
Thiền Sư Hoài Nhượng, Kim Châu,
Họ Đỗ, lúc đầu lễ An Quốc Sư
Ở Cao Sơn. An bảo rằng
Đến Tào Khê tham bái Ngài Tổ đi.
Tổ hỏi: - Từ đâu đến vầy?
- Cao Sơn. - Vật gì đến? Sao đến vầy?
- Nói một vật không đúng rồi.
- Vậy có thể tu chứng không? Đáp rằng:
- Tu
chứng thì không phải không,
Nhưng
mà nhiễm ô lại không thật vầy.
Lục
Tổ ấn chứng cho rằng:
- Chính
là cái không nhiễm ô ấy, mà
Chư
Phật đều hộ niệm đây!
Ông
đã được vậy, thì tôi cũng vầy.
Nhượng hoắc nhiên đại ngộ ngay,
Hầu cận bên Tổ suốt mười lăm năm,
Ngày càng thâm nhập Phật môn.
Sư đến Nam Nhạc hoằng dương tông thiền,
Ngài mất được phong hiệu là
Đại Huệ Thiền Sư (được vua sắc phong).
Vĩnh Gia Huyền Giác thiền sư,
Người họ Tải, đất Ôn Châu, ngay từ
Thuở nhỏ học Kinh Luận rồi,
Tinh thông pháp môn của Thiên Thai tông,
Sau nhờ xem Kinh Duy Ma
Mà phát minh được Phật tâm ra rồi,
Gặp đệ tử của Tổ là
Huyền Sách cùng nhau luận đàm nghĩa hay.
Sách thấy lời nói của Sư
Khế hợp chư Tổ, Sách bèn hỏi ngay:
- Nhân giả đắc pháp với ai?
- Tôi
nghe Kinh luận Đại thừa thì đều
Có
thầy truyền dạy, nhưng sau
Đọc
Kinh Duy Ma, ngộ tâm Phật này,
Chưa có người chứng minh cho.
Sách bảo: Trước Phật Oai Âm Vương thì
Được, sau Phật Oai Âm Vương
Mà tự ngộ, không có thầy chứng minh,
Đều là ngoại đạo thiên nhiên.
- Vậy xin nhân giả chứng minh cho tôi.
Sách bảo: Lời tôi nhẹ cân.
Tào Khê Lục Tổ Đại sư, bốn phương
Tụ hội thọ pháp với Ngài.
Nếu đi thì chúng ta cùng nhau đi.
Giác cùng đi với Sách liền
Tới tham lễ Tổ. Khi vừa tới nơi,
Giác đi quanh ba vòng rồi
Chống tích trượng đứng. Thấy nên Tổ rằng:
- Hễ
làm vị Sa môn thì
Phải đủ ba ngàn oai nghi, và cùng
Tám vạn tế hạnh nữa mà.
Từ đâu tới mà ngạo kiêu như vầy?
Giác nói: - Sanh tử việc to,
Vô thường mau chóng quá nhanh. Sư rằng:
- Sao
không ngay thể tánh mà
Trực nhận về cái không sanh này, và
Để liễu đạt cái không mau?
- Thể vốn không sanh, liễu thì không nhanh.
Sư nói- Đúng vầy, đúng vầy.
Giác đủ oai nghi lễ rồi cáo từ.
Tổ hỏi: - Về chóng quá vầy?
- Vốn tự không động, có mau chóng sao?
Tổ hỏi: - Ai không động nào?
- Ấy là nhân giả tự sanh biệt phân.
- Ông thật đạt ý vô sanh.
Giác hỏi: - Vô sanh có điều ý sao?
- Không ý ai biết biệt phân?
- Phân biệt cũng không phải là ý đâu.
Tổ bảo: - Lành thay! Lành thay!
Hãy lưu lại một đêm rồi mới đi.
Bấy giờ gọi Huyền Giác là
“Một đêm giác ngộ”. Về sau Giác làm
“Bài ca chứng đạo” thịnh hành
Được ban Vô Tướng Đại Sư sau này.
Thiền Sư Trí Hoàng, lúc đầu
Tham học ngũ Tổ, tự cho định rồi,
Trong am ngồi hai mươi năm.
Đệ tử Tổ, Huyền Sách đi du phương
Đến Hà Sóc, nghe danh Hoàng,
Đến am hỏi: - Ông ở đây làm gì?
Trí Hoàng đáp - Nhập định đây.
Sách bảo: - nói nhập định đây thế nào.
Như vậy nhập định hữu tâm
Hay là nhập định vô tâm mà thiền?
Nếu vô tâm, hết thảy loài
Vô tình như ngói đá cây cỏ rồi,
Đáng lẽ cũng nên gọi là
Đã đạt định, nếu hữu tâm mà thiền,
Thì tất cả loài hữu tình
Có tâm thức cũng gọi tên định thiền.
Hoàng nói: - khi nhập định thiền,
Không thấy cái tâm hữu vô ấy đâu.
Đáp: - Không thấy tâm hữu vô,
Là thường định, xuất nhập đâu còn và
Xuất nhập chẳng đại định này.
Hoàng không đáp được, cho nên hỏi rằng:
- Nhân giả kế thừa pháp ai?
- Thầy tôi, Lục Tổ Đại Sư Tào Khê,
- Lục Tổ lấy gì định thiền?
Sách đáp: - Lời dạy thầy tôi như vầy
Tự tánh huyền diệu trạm nhiên
“Diệu trạm viên tịch”, thể dùng như như,
Năm ấm (ngũ uẩn) vốn không,
Sáu trần không thật, không ra không vào,
Cũng không định không loạn luôn.
Bản tánh của thiền là vô trú, nên
Không trú nơi lặng của thiền.
Tánh của thiền là vô sanh, nên không
Sanh những ý tưởng về thiền.
Tâm như hư không, nhưng mà cũng không
Có tư tưởng về hư không.
Hoàng nghe nói như vậy bèn đến Sư
Tổ hỏi: - Nhân giả từ đâu?
Hoàng trần thuật mọi sự nhân duyên này.
Tổ nói: - Sách nói đúng vầy.
Tổ thương xót người từ xa đến đây
Tổ bèn khai thị như sau:
- Ông
hãy để tâm như hư không, mà
Chớ giữ ý về hư không.
Để nó vận hành tự nhiên. Dù khi
Làm việc hay là nghỉ ngơi,
Hãy để tâm an trú trong không vầy.
Đừng phân chủ khách Thánh phàm.
Tâm thể, vạn sự tự tâm như như
Thế gọi là thường định đây.[6]
Trí Hoàng đại ngộ liền ngay, những gì
Tâm đắc hai mươi năm qua
Không còn tác dụng nữa. Đêm ấy, thì
Dân Hà Bắc nghe trên không
“Thiền Sư Trí Hoàng hôm nay đắc thiền”.
Sau Hoàng từ biệt Tổ Sư,
Trở về Hà Bắc hoằng dương đạo thiền.
Thần Hội đồng tử mười ba,
Từ Ngọc Tuyền đến lễ Ngài Tổ Sư
Tổ dạy: - Bạn đến từ xa
Khó nhọc, có đêm gốc này đến chăng
Có gốc tất biết chủ nhơn.
Hãy nói thử xem! Hội liền đáp rằng:
- Lấy
Vô trú là bản lai,
Cái thấy tức là chủ nhơn đó mà.
Tổ dạy: - Sa di nói càn!
Hội hỏi: - Ngài tọa thiền, nhìn hay không?
Tổ đánh cho ba gậy, rằng:
- Ta đánh, ngươi đau không? Nên Hội rằng:
- Cũng đau và cũng không đau.
Tổ hỏi: - Ta cũng thấy và cũng không.
Thần Hội hỏi: nghĩa là sao?
Tổ đáp: - Ta thấy lỗi lầm tự tâm,
Không thấy là không thấy điều
Phải trái tốt xấu của người khác đâu.
Nên thấy cũng không thấy vầy.
Ngươi nói đau cũng không đau là sao?
Nếu không đau thì khác gì
Gỗ đá, nếu đau thì như phàm phu,
Tất sẽ khởi tâm hận sân.
Ngươi nói thấy và không thấy là nhị biên,
Đau không đau là diệt sanh.
Tự tánh Ngươi không thấy mà dám đùa.
Hội lạy sám hối lỗi lầm.
Tổ dạy: Nếu không thấy tâm mê, thì
Hỏi
Thiện tri thức tìm đường.
Nếu
tâm ngộ, thì thấy tâm tánh mình,
Y
theo pháp mà tu hành.
Đã
mê không thấy tự tâm mà còn
Tới
hỏi ta thấy với không
Nếu
thấy thì ta tự nhìn biết rồi,
Đâu
đợi mê lầm của ngươi.
Nếu
ngươi tự thấy được thì không cần
Đợi
đến cái mê của ta.
Sao
không tự biết thấy mình, lại đi
Hỏi
ta thấy với không vầy.
Thần Hội lại lễ thêm trăm lạy ngay,
Cầu xin sám hối Tổ Sư,
Từ đấy Hội siêng năng hầu Tổ luôn.
Một hôm Tổ bảo chúng rằng:
- Ta
có một vật không đầu không đuôi,
Không
danh tự, không có tên,
Không
lưng, không mặt, các người biết không?
Thần Hội bước ra nói rằng:
- Đó
là bản nguyên của Hàng Như Lai,
Là
Phật tánh của con đây.
Tổ dạy: Ta bảo nó không tên mà,
Không
danh tự sao ngươi còn
Gọi
bản nguyên Phật tánh là sao đây.
Ngươi
chỉ lấy cỏ che đầu,
Chỉ
thành một môn đồ tri giải thôi.
Sau khi Tổ nhập diệt rồi.
Thần Hội vào đất Kinh thành Lạc dương
Hoằng pháp rộng truyền pháp môn
Đốn giáo của Tào Khê, Thần Hội làm
Bộ Hiển Tông Ký nơi đời
Hiệu là Hà Trạch Thiền Sư sau này.
Một vị Tăng hỏi Tổ Sư:
- Tông chỉ Tổ Hoàng Mai ai được vầy?
- Người hiểu Phật pháp được thôi.
Tăng hỏi: - Hòa thượng được không thưa Ngài?
- Tổ Sư nghe vậy trả lời
Tôi không hiểu Phật pháp chi đâu nào.
Một hôm, Sư muốn giặt y
Của Ngũ Tổ đã được truyền thọ xưa,
Nhưng không còn suối tốt trong.
Ngài ra phía sau chùa năm dặm xa
Thì thấy rừng núi biếc xanh,
Bàng bạc thoại khí vòng quanh núi rừng.
Sư ấn tích trượng xuống, liền
Có nước suối nơi đó trào ra ngay
Vọt lên tụ thành cái ao.
Sư quỳ trên phiến đá mà giặt y.
Vị tăng tên Phương Biện, đây
Người đất Thục đến lễ. Sư hỏi rằng:
- Thượng nhân sở trường nghề gì?
Vị Tăng đáp: - Đắp tượng. Sư bảo rằng:
- Ông hãy đắp thử cho xem.
Phương Biện hoang mang. Vài ngày sau ông
Đắp thành một cái tượng ngay
Bảy tấc rất tinh xảo. Sư cười rằng:
- Ông
hiểu tánh đắp tượng, nhưng
Không
am tường Phật tánh như thế nào.
Sư xoa đầu thọ ký cho
Làm ruộng phước vĩnh viễn cho loài người,
Rồi lấy y mà trả công
Biện chia cái y ra làm ba phần,
Một đắp cho pho tượng này,
Một giữ cho mình, còn đây một phần
Gói lại chôn xuống đất này
Phát lời nguyện rằng đời sau cho tôi
Được y này lúc tái sanh,
Trú trì đất ấy trùng tu ngôi chùa.
Đến đời Tống Gia Hữu vào
Năm thứ tám, có vị Tăng Duy Tiên
Trùng tu chùa, đào đất lên
Được mảnh y như mới. Pho tượng này
Hiện vẫn ở chùa Cao Tuyền,
Nổi tiếng rất linh ứng được truyền khắp nơi.
Có vị Tăng đem một bài
Kệ của thiền sư Ngọa Luân đọc rằng:
Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng
Năng đoạn bách tư tưởng
Đối cảnh tâm bất khởi
Bồ đề nhật nhật trưởng.
Năng đoạn bách tư tưởng
Đối cảnh tâm bất khởi
Bồ đề nhật nhật trưởng.
(Ngọa Luân có nghề hay
Dứt được trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm không sanh
Bồ đề ngày càng lớn).
Dứt được trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm không sanh
Bồ đề ngày càng lớn).
(Ni Sư Trí Hải)
Sư nghe bài kệ dạy rằng:
- Bài
kệ chưa rõ thấu tâm địa đâu.
Theo
kệ đó mà làm là
Tự
thêm dây trói buộc vào đó thôi.
Nhân đấy Sư đọc kệ:
Huệ Năng một kỹ lưỡng
Bất đoạn bách tư tưởng
Kiến cảnh tâm sát khởi
Bồ đề tác ma trưởng.
Bất đoạn bách tư tưởng
Kiến cảnh tâm sát khởi
Bồ đề tác ma trưởng.
(Huệ Năng không nghề hay
Chẳng dứt trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm thường khởi
Bồ đề lớn sao được).
Chẳng dứt trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm thường khởi
Bồ đề lớn sao được).
(Ni Sư Trí Hải)
Hết Phẩm Bảy
Phẩm Thứ Tám
Đốn và Tiệm
Trong khi Lục Tổ trú trì
Ở chùa Bảo Lâm đất Tào Khê, thì
Đại Sư Thần Tú trú trì
Ở chùa Ngọc Tuyền đất Kinh Nam này.
Bấy giờ, hai tông thịnh hành,
“Nam Năng, Bắc Tú”, chia thành ra hai
Phái Đốn, Tiệm, (là nhanh, lâu)
Người học không biết theo ai thực hành.
Sư dạy bảo đại chúng rằng:
- Pháp
vốn một tông chỉ, người Bắc, Nam,
Chứ pháp chỉ một nhà thôi,
Nhưng kiến giải (Pháp ấy) thời hiểu ngay
Thì có kẻ chậm người mau.
Sao gọi là đốn, tiệm? Sư giảng rằng:
Pháp không có đốn, tiệm, nhưng
Người có kẻ thông minh, người đần nên
Gọi đốn tiệm chỉ là tên.
Tuy vậy, đồ chúng của bên phái này
Thần Tú chê Tổ Nam tông
Không biết một chữ, thì đâu sở trường.
Thần Tú nói: Ngài Huệ Năng
Được Vô sư trí, thậm thâm nhập ngay
Tối thượng thừa, ta không bằng.
Ngũ Tổ đã truyền pháp y cho Ngài,
Đâu phải vô cớ mà truyền.
Ta bận không thể đến thân cận Ngài,
Ngồi đây luống thọ ân vua.
Các ngươi đừng nên luyến lưu nơi này,
Đến Tào Khê tham bái ngay
Mà giải quyết nghi ngờ về pháp tông.
Ngày kia, Tú bảo Chí Thành,
- Ông
thông minh nhiều trí này, vì tôi
Đến Tào Khê nghe pháp rồi,
Nhớ về thuật lại cho tôi rõ ràng.
Chí Thành tới Tào Khê ngay
Theo đại chúng nghe pháp, nhưng Chí Thành
Không nói ra tông tích mình,
Khi ấy Tổ sư bảo đồ chúng hay:
- Có người nghe
trộm pháp ta
Đang ẩn trong pháp hội này. Cho nên
Chí thành bước ra ngoài bên
Làm lễ, kể rõ đầu đuôi như vầy.
Sư dạy: Ông từ Ngọc Tuyền
Thì chắc là mật thám rồi chứ sao.
Chí Thành nói không phải đâu.
Sư bảo: - Không sao được? Thành đáp ngay:
- Chưa nói ra
còn phải, nay
Đã nói ra rồi thì không phải vầy.
- Thầy ông dạy chúng những gì?
- Thầy
tôi thường bảo chúng rằng trụ tâm,
Quán sự tịch tịch, không nằm, ngồi thôi.
Nghe xong, Sư nói: Trụ tâm
Quán tịnh ấy là bệnh không phải thiền.
Ngồi mãi chỉ nhọc xác thân,
Với đạo có ích lợi gì nào đâu?
Hãy nghe kệ của tôi:
Đang sống ngồi không nằm
Chết rồi, nằm không ngồi
Chỉ là đống xương thối
Có gì công với tội?
Chết rồi, nằm không ngồi
Chỉ là đống xương thối
Có gì công với tội?
(Ni Sư Trí Hải)
Chí Thành lạy mà bạch rằng:
- Đệ
tử học đạo chín năm với Thầy
Mà không hiểu ngộ, nghe Ngài
Chỉ một lời ngộ bản tâm ngay liền.
Con vì việc lớn tử sanh
Mà xin Hòa thượng mở lòng đại bi
Chỉ dạy thêm cho con đi.
Sư bảo: - Thầy ông dạy cho chúng về
Pháp môn định tuệ thế nào?
Nói cho tôi nghe xem sao như vầy.
- Dạ
thưa, Đại sư dạy rằng
Điều ác không làm gọi là giới đây,
Điều thiện cung kính thực hành
Gọi là tuệ, tịnh tâm là định luôn.
Ngài dạy như vậy đó thôi.
Còn Hòa thượng dạy pháp môn gì vầy?
Sư nói: Nếu tôi nói rằng
Có pháp mà trao cho người, thành ra
Tôi nói dối với ông đây.
Tôi chỉ tùy theo những căn cơ mà
Bị trói buộc thì cởi ra,
Tạm gọi Tam muội giả danh đấy mà.
Như giới định tuệ thầy ông
Nói đó thật bất khả tư nghì vầy.
Giới định tuệ tôi khác hơn.
- Giới định tuệ chỉ một, sao khác vầy?
Sư dạy: Giới định tuệ này
Của thầy ông tiếp độ người Đại thừa,
Còn giới định tuệ của tôi
Tiếp độ người Tối thượng thừa đấy thôi.
Do chỗ ngộ giải không đồng
Nên thấy có kẻ mau người chậm thôi.
Ông hãy nghe tôi nói xem
Có giống với thầy ông chăng. Tôi rằng
Pháp không rời tự tánh này,
Lìa bản thể mà nói thì cũng là
Chỉ nói đến tướng thôi, còn
Tự tánh thì vẫn mê lầm đó thôi.
Nên biết tất cả pháp đều
Từ tự tánh khởi ứng dùng này đây,
Ấy là giới định tuệ chân.
Là chơn pháp, hãy nghe bài kệ tôi:
Tâm địa không tà vạy là giới của tự tánh
Tâm địa không si mê là tuệ của tự tánh
Tâm địa không rối loạn là định của tự tánh
Không tăng không giảm như kim cương
Thân đến hay đi vẫn trong Tam muội.
Tâm địa không si mê là tuệ của tự tánh
Tâm địa không rối loạn là định của tự tánh
Không tăng không giảm như kim cương
Thân đến hay đi vẫn trong Tam muội.
(Ni Sư Trí Hải)
Chí Thành sám hối tạ ơn
Khi nghe xong,trình Ngài bài kệ sau:
Năm uẩn là thân huyễn
Đâu có gì cứu cánh
Quay về với chơn như
Thì lại thành bất tịnh.
Đâu có gì cứu cánh
Quay về với chơn như
Thì lại thành bất tịnh.
(Ni Sư Trí Hải)
Sư gật đầu bảo Chí Thành:
- Giới
định tuệ của thầy ông độ cho
Những người căn trí thấp thôi,
Còn giới định tuệ của tôi nói là
Độ người đại trí đại căn.
Nếu ngộ được tự tánh thì cũng không
Lập Bồ đề Niết bàn, và
Giải thoát tri kiến cũng không lập vầy,
Và không có một pháp nào
Thật có thể nắm lấy đâu, dựng xây
Kiến lập vạn pháp được vầy.
Nếu hiểu gọi là Bồ đề Niết bàn,
Là giải thoát tri kiến này.
Người kiến tánh thì lập hay không thì
Sao cũng đều được, người này
Không vướng không kẹt, đến về tự do,
Diệu dụng mà làm, tùy lời
Mà đáp, thấy phổ quát rằng khắp nơi
Các hóa thân đều không rời
Tự tánh, tức được thần thông an nhiên,
Rong chơi trong Tam muội liền,
Ấy gọi là kiến tánh luôn đó mà
Chí Thành hỏi Lục Tổ rằng:
- Không lập nghĩa là sao đây, thưa Ngài?
Sư dạy: - Tự tánh không sai
Không loạn động, không si mê muội, và
Trong mỗi niệm đều lấy ngay
Trí tuệ soi chiếu, thường lìa tướng luôn,
Tự do, ngang dọc đều thông,
Còn gì phải lập? Ngộ liền tu liền,
Tự tánh tự ngộ, cũng không
Từ từ lai rai, do vầy cũng không
Lập một pháp nào cả đâu.
Pháp vốn tịch diệt, đâu ngăn nắp gì.
Chí Thành lễ bái, và xin
Nguyện làm thị giả hầu Sư sớm chiều.
Tăng Chí Triệt, người Giang Tây
Họ Trương, trước tên Hành Xương, những ngày
Làm hiệp sĩ thuở thiếu thời.
Từ khi Nam Bắc phân chia, tuy rằng
Hai vị tông chủ không còn
Tâm bỉ ngã, nhưng chúng còn ghét ưa.
Mà môn đồ bên Bắc Tông
Tự lập Thần Tú lên làm chỉ huy
Tức là đệ Lục Tổ đây,
Nhưng sợ chuyện Ngũ Tổ truyền y cho
Huệ Năng bị thiên hạ nghe,
Bèn sai Hành Xương diệt trừ Huệ Năng.
Sư tâm thông biết việc này,
Đặt sẵn mười lượng vàng nơi chỗ ngồi.
Lúc tối, Hành Xương vào phòng
Để chém thì Sư đưa liền cổ ra.
Hành Xương chém đến ba lần
Không gây vết thương nào. Sư nói rằng:
- Gươm
chánh không làm chuyện tà.
Gươm tà chém không trúng vầy được đâu.
Ta chỉ có nợ ngươi vàng,
Chẳng nợ ngươi sanh mạng này chi đâu.
Hành Xương kinh hãi ngã lăn
Hồi lâu tỉnh lại, ăn năn nguyện cầu
Sám hối, phát nguyện xuất gia.
Sư đưa vàng cho Hành Xương , bảo rằng:
- Ngươi
hãy đi đi đã ngay,
Sợ chúng của ta hại ngươi đấy mà.
Ngày khác đổi dạng thay hình
Mà tới, ta sẽ độ cho ngươi liền.
Hành Xương vâng lệnh trốn đi,
Sau ở nơi khác xuất gia cạo đầu.
Một hôm nhớ lời Sư khuyên,
Từ xa đến làm lễ. Sư bảo rằng:
- Ta thật nhớ ông lâu nay,
Sao bây giờ tới nơi đây chậm vầy?
- Nhớ
ơn Ngài xá tội con,
Nay tuy khổ hạnh xuất gia nhưng mà
Vẫn thấy trọn đời cũng không
Báo được ân đức. Chỉ mong được Ngài
Truyền pháp độ sanh họa may
Con đền đáp được chút nào tương lai.
Đệ tử xem Kinh Niết bàn,
Mà không hiểu nghĩa “thường” và “vô thường”
Ngài từ bi giảng cho con.
- Vô thường là Phật tánh. Thường là tâm
Phân biệt hết pháp ác lành.
Chí Triệt kinh dị, bạch: Ngài nói ra
Ngược hẳn văn tự trong Kinh.
Sư bảo: Tôi được truyền tâm ấn rồi,
Đâu
dám nói trái với kinh?
-
Kinh dạy rằng Phật tánh là thường nhưng
Ngài lại dạy là vô thường,
Và còn Kinh dạy pháp lành ác, ngay
Bồ đề tâm đều vô thường,
Thì Hòa thượng lại dạy là thường đây.
Như vậy là trái hẳn nhau,
Làm cho con càng nghi ngờ thêm thôi.
Sư bảo: xưa tôi đã nghe
Ni Vô Tận Tạng đọc Kinh Niết bàn
Rồi tôi giảng nói cho cô,
Không có một nghĩa một câu nào là
Không khế hợp với văn Kinh.
Nay nói với ông cũng vầy, thật tôi
Không nói khác đi chút nào.
- Con ngu, Ngài giảng rõ ràng cho con.
Sư nói rằng: - Ông biết chăng?
Phật tánh nếu là thường, thì dù cho
Nói bao nhiêu pháp ác, lành
Cho tới mãn kiếp cũng không một người
Phát nguyện tâm Bồ đề đâu.
Cho nên, tôi nói vô thường, chính là
Chỗ Phật dạy chơn thường đây.
Lại nếu các pháp là vô thường, thì
Mỗi vật có tự tánh riêng,
Lãnh chịu sanh tử, vậy thì khiến cho
Tánh chơn thường ở khắp nơi
Lại có chỗ không lưu thông được rồi;
Cho nên tôi nói cái thường
Là ý nghĩa vô thường Như Lai dạy này.
Phật vì ngoại đạo phàm phu
Chấp là thường, và các người Nhị thừa
Chấp vô thường, tổng cộng thành
Tám cái chấp đảo ngược, cho nên trong
Kinh Niết bàn liễu nghĩa này
Phá thiên kiến của họ, bày tỏ ra
Tứ đức chơn của Niết Bàn
Chơn thường, lạc, ngã, tịnh đây đó mà
Nhưng ông kẹt nơi văn mà
Quay lưng với nghĩa lý, ông lại còn
Chấp đoạn diệt là vô thường,
Và sự cố định là thường, và ông
Hiểu lầm lời dạy tuyệt hay
Vi diệu tối hậu của Như Lai vầy.
Như vậy, ông có xem Kinh
Ngàn lần cũng không ích gì cho đâu.
Hành Xương đại ngộ, trình kệ rằng:
Vì cái chấp vô thường
Phật dạy tánh hữu thường
Không biết đấy phương tiện
Như nhặt sỏi ao xuân
(mà tưởng cho là ngọc)
Tôi nay không dụng công
Mà Phật tánh hiện tiền
Không phải do Sư trao
Cũng không phải tôi được.
Phật dạy tánh hữu thường
Không biết đấy phương tiện
Như nhặt sỏi ao xuân
(mà tưởng cho là ngọc)
Tôi nay không dụng công
Mà Phật tánh hiện tiền
Không phải do Sư trao
Cũng không phải tôi được.
(Ni Sư Trí Hải)
- Ông nay đã triệt ngộ rồi,
Đáng gọi Chí Triệt. Triệt chào mà lui.
Sư thấy vấn nạn ngay trong
Của các tông phái đều mang ác tâm,
Những người này phần nhiều đều
Tụ tập tại giảng đường. Sư dạy rằng:
- Người học đạo thì tất nhiên
Hết thảy sự nhớ nghĩ về ác lành
Đều phải trừ diệt hết. Vì
Không có một cái tên nào mà ta
Có thể gọi được cho nên
Tạm gọi là tự tánh như đây vầy
Cái tánh không hai gọi là
Thật tánh, từ thật tánh mà dựng xây
Pháp môn giáo hóa. Hãy ngay
Tự thấy bản tánh đi, nơi lời này.
Mọi người nghe lời ấy đều
Đảnh lễ nguyện xin thờ Ngài làm thầy.
Phẩm Thứ Chín
Duy Trì Chánh Pháp
Đời vua Thần Long nguyên niên,
Vào ngày thượng nguyên, vua ban chiếu rằng:
“Trẫm thỉnh hai Sư An và
Thần Tú vào cung cúng dường để khi
Rảnh tham cứu đạo Nhất thừa.
Hai Sư đều từ chối bảo rằng, phương Nam
Có Tổ Thiền sư Huệ Năng
Được Nhẫn Đại sư mật truyền pháp y,
Truyền Phật tâm ấn, mời Ngài
Đến hỏi. Nay Tiết Giản là Trẫm sai
Đem chiếu chỉ đến thỉnh Ngài,
Xin Ngài từ bi gấp về kinh mau”.
Sư xem, cáo bệnh khước từ
Sư nguyện suốt đời ở rừng núi thôi .
Quan Tiết Giản bạch Sư rằng:
- Các bậc Thiện đức kinh thành nói khi
Nếu muốn được hiểu đạo thì
Phải tọa thiền tập định, không nhờ vào
Thiền định mong giải thoát là
Chuyện không có. Sư dạy như thế nào?
- Đạo tâm ngộ, chẳng do ngồi.
Kinh dạy: “Nếu Như Lai ngồi hay nằm
Đều là tà đạo. Vì sao?
Không từ đâu lại, cũng không đi đâu,
Không sanh không diệt, ấy là
Như Lai thanh tịnh thiền. Và còn như:
Các pháp không tịch, ấy là
Chỗ ngồi thanh tịnh Như Lai, tuyệt không
Chứng đắc, huống chi có ngồi.
Tiết Giản bạch: - Đệ tử về kinh đô,
Chúa thượng ắt hỏi, xin Sư
Từ bi dạy tâm yếu cho, khi về
Tâu lại cho hai cung và
Các học giả ở kinh thành. Ví như
Một đèn mồi trăm ngàn đèn,
Khiến tối đều được sáng trưng, bấy giờ
Ánh sáng mãi chẳng hết luôn.
Sư nói: Đạo không sáng hay tối gì,
Sáng tối thay đổi cho nhau.
Ánh sáng tiếp nối mãi, rồi tận thôi,
Đối đãi nhau mà lập danh.
Nên Kinh Tịnh Danh nói rằng: “Pháp không
So sánh, không đối đãi vầy”.
Giảng nói: - Sáng dụ trí đây, tối thì
Dụ phiền não. Người tu hành
Không lấy trí chiếu phá phiền não thì
Cái sanh tử vô thủy kia
Dựa vào đâu mà xuất ly được vầy?
Đáp: Phiền não tức Bồ đề,
Không hai không khác. Nếu như nói rằng
Lấy trí chiếu phá não phiền,
Là kiến giải của Nhị thừa này thôi
Là căn cơ xe dê, hưu.
Người thượng trí đại căn không như vầy.
- Thế nào kiến giải Đại thừa?
- Minh và vô minh, người phàm thấy hai,
Bậc trí liễu đạt tánh này
Nó không hai. Tánh không hai ấy là
Thật tánh. Thật tánh ở nơi
Phàm phu không giảm, Thánh hiền không thêm,
Trong phiền não không loạn điên,
Ở trong thiền định mà không lặng im,
Không đoạn không thường, không đi,
Không đến, không ở giữa, không ở ngoài
Không trong, không diệt, không sanh,
Tánh tướng như như, trụ thường và không
Dời đổi gọi là Đạo thôi.
Giản nói: - Sư nói không diệt không
sanh
Thì khác gì ngoại đạo chăng?
- Ngoại đạo nói không diệt không sanh là:
Đem diệt mà chấm dứt sanh,
Lấy sanh mà làm rõ ràng diệt thôi.
Và như thế thì diệt này
Cũng như không diệt, sanh là bất sanh.
Tôi nói bất diệt bất sanh
Là bản tánh tự nó thì vô sanh
Nên nay cũng không diệt đâu.
Nên khác với ngoại đạo là như đây.
Ông muốn biết tâm yếu thì
Chỉ cần không suy lường gì đến qua
Hết thảy thiện ác, tức thì
Tự nhiên vào được tâm thanh tịnh này,
Trạm nhiên thường tịch như đây,
Và diệu dụng như hằng sa như vầy.
Tiết Giản nghe chỉ giáo trên
Đại ngộ, lễ bái giã từ về kinh,
Dâng biểu thuật lại lời Sư.
Ngày mồng ba tháng chín, năm ấy thì
Vua ban chiếu khen Sư rằng:
“Sư từ chối lấy cớ già bệnh là
Đã vì trẫm tu đạo làm
Ruộng phước cho quốc gia, Sư như Ngài
Tịnh Danh giả bệnh ở thành
Tỳ Da tuyên dương Đại thừa để truyền
Phật tâm ấn, pháp không hai.
Tiết Giản truyền lại lời Sư dạy rằng
Về điều tri kiến Như Lai.
Đời trước do Trẫm tích lành có dư,
Và có trồng thiện căn nên
Được gặp Sư xuất thế cùng đời nay,
Đốn ngộ tối thượng thừa vầy.
Cảm bội ân đức của Sư, chẳng quên
Nay dâng chiếc ca sa và
Bình bát thủy tinh. Lại sai quan thần
Thứ sử Thiều Châu sửa chùa
Sư ở trước, sắc phong chùa Quốc Ân.”
Hết Phẩm Chín
PHẨM THỨ MƯỜI
DẶN DÒ
DẶN DÒ
Một hôm, Sư gọi môn nhân
Gồm có Pháp Hải, Chí
Thành, Trí Thông,
Pháp Đạt, Thần Hội, Trí
Thường,
Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp
Trân, Pháp Như …
Sư dạy: các đệ tử ta:
- Các ông không giống như
người khác đâu,
Sau khi tôi diệt độ rồi,
Mỗi người sẽ làm vị thầy
một phương,
Nay tôi dạy cho các ông
Thuyết pháp không để mất
tông chỉ này.
Trước phải đưa ra pháp môn
Ba khoa, sử dụng ba mươi
sáu (36) đôi,
Ra vào lìa cả hai bên.
Khi nói tất cả pháp môn
chớ rời
Tự tánh. Và ba khoa là
Ấm, giới, nhập. Ấm là năm
ấm này:
Sắc, thọ, tưởng, hành,
thức đây.
Nhập là mười hai nhập, nay
sáu trần
(Pháp, sắc, vị, xúc,
hương, thanh)
Sáu căn: trong người đó
là: mắt tai
Mũi, lưỡi, thân, và ý đây
(nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý).
Giới là (18) mười tám: sáu
trần, sáu căn
Và sáu thức. Tự tánh là
Có công năng hàm chứa ngàn
pháp môn,
Gọi là hàm tàng thức luôn.
Nếu khởi tư lượng chuyển
thành thức nhanh,
Phát sanh sáu thức đi ra
Sáu cửa mà thấy sáu trần,
như đây
Mười tám (18) giới này đều
từ
Tự tánh mà sanh khởi ra
ứng dùng.
Tự tánh mà tà mê thì
Phát khởi ra (18) mười tám
điều tà luôn,
Còn nếu tự tánh chánh thì
Phát khởi (18) mười tám chánh
đây như vầy.
Ứng dụng ác thì gọi là
Chúng sanh dụng. Ứng dụng
lành hoặc như
Ứng dụng thiện Phật dụng
này.
Nếu hỏi Dụng do đâu mà có
đây?
Do tự tánh đối pháp này:
Ngoại cảnh vô tình có 5
đối vầy:
Trời đối với đất, hoặc là
Mặt trời đối với mặt
trăng, hoặc là
Sáng đối tối, dương đối âm,
Nước đối lửa. Pháp tướng
ngôn ngữ thì
Có mười hai đối như là:
Lời đối pháp, có đối
không, hoặc là
Hữu sắc đối vô sắc, và
Hữu tướng đối vô tướng,
hay như là
Hữu lậu với vô lậu đây,
Sắc thì đối với không, và
còn như
Động đối với tịnh, hay là
Trong đối với đục, Thánh đây
đối phàm
Tăng đối tục, trẻ đối già
Lớn đối nhỏ. Là (12) mười
hai đối này.
Tự tánh khởi dụng có ngay
(19) Mười chín đối như:
ngắn - dài, chánh - tà,
Si – tuệ, loạn – định,
trí– ngu,
Hiền – dữ, giới – quấy,
hiểm – bình, thật – hư,
Thẳng – cong, phiền não –
Bồ đề,
Thường – vô thường, bi –
hại, hoan hỷ - sân,
Xả - xan, tới – lui, diệt–
sanh,
Pháp thân – sắc thân, Hóa
thân – Báo thân.
Ấy là (19) mười chín đối
vầy.
(36) Ba mươi sáu đối pháp
này nếu khi
Hiểu biết rõ ứng dụng thì
Bao quát hết binh pháp và
cũng như
Ra vào đều lìa hai bên,
Tự tánh động dụng, cùng
người bàn luôn.
Ngoài ngay tướng lìa tướng
này,
Trong ngay nơi không mà
lìa không đây.
Nếu toàn chấp tướng ấy là
Tăng trưởng tà kiến, còn
toàn chấp không
Là tăng trưởng sự vô minh.
Bên ngoài chấp không
thường bài bác Kinh,
Nói rằng không dùng chữ
văn.
Nhưng đã nói không dùng
văn tự, thì
Đáng lẽ cũng không nói
phô.
Nội một lời ấy đã là
Biểu hiện ra cái tướng văn
tự rồi.
Nên Ngài liền nói thêm
rằng
“Đạo thẳng không cần lập
văn tự vầy”,
Nhưng hai tiếng “bất lập”
này
Cũng là văn tự. Hạng người
ấy khi
Thấy người khác nói điều
gì
Liền bác, cho là chấp văn
tự rồi.
Các ông nên biết mình mê
Còn khả thứ, đằng này còn
chê bai
Kinh Phật thì tội chướng
nhiều.
Nếu còn chấp tướng bên
ngoài làm theo
Sự việc tìm chân lý như
Thiết lập đạo tràng luận
bàn về không
Về hữu, những người như
vầy
Mãn kiếp không thể thấy
ngay tánh này.
Các ông chỉ có việc đây
Hãy như pháp mà tu hành
nhiều thêm.
Nhưng mà lại cũng chớ nên
Trăm việc không nghĩ tới
liền, khiến cho
Ngay cả cái tánh (lưu
thông)
Của đạo bị chướng ngại
luôn. Nếu mà
Nghe, giảng nói mà không
tu,
Sẽ làm cho người phát sanh
niệm tà.
Chỉ cần y pháp tu hành,
Là bố thí Phật pháp vô
tướng rồi.
Nếu các ông đã ngộ rồi,
Theo đấy mà giảng nói,
theo đấy mà
Ứng dụng, theo đấy hành
trì,
Theo đấy làm không mất
tông chỉ vầy.
Khi cùng người đối đáp
như:
Hỏi về hữu, đối bằng vô,
hỏi về
Vô thì đối bằng hữu vầy,
Hỏi về phàm thì đối bằng
Thánh đây,
Hỏi về Thánh đối bằng
phàm.
Hai đường làm nhân cho
nhau phát sanh
Cái nghĩa Trung đạo này
ngay,
Các câu hỏi khác y theo
đấy mà
Làm khỏi mất chánh lý đâu.
Như có người hỏi “tối” là
gì đây?
Hãy đáp rằng “sáng là
nhân,
Tối là duyên, sáng hết thì
tối đen,
Dùng sáng tỏ rõ tối đen;
Lấy tối làm tỏ cái duyên
sáng này”.
Đến đi làm nhân cho nhau,
Thành nghĩa lý Trung đạo
này mà thôi.
Các câu hỏi khác cũng vầy.
Các ông về sau ban truyền
pháp môn,
Theo đấy mà truyền dạy
nhau,
Nhớ rằng chớ để mất tông
chỉ này.
Năm Nhâm Tý tháng bảy vào
Thời Đại Thái cực nguyên
niên bấy giờ.
Sư dạy môn nhân tới chùa
Quốc Ân ở Tân Châu xây
tháp đền,
Lại bảo làm gấp rút đi.
Năm sau cuối mùa hạ thì việc
xong.
Ngày mồng một tháng bảy
thì,
Sau đó, họp đồ chúng Sư
dạy rằng:
-Đến lúc tháng tám này đây
Tôi sẽ giã từ để rời thế
gian.
Các ông còn điều nghi nào
Nên hỏi cho sớm, tôi trừ nghi
cho,
Khiến các ông hết lầm mê.
Sau khi tôi đi rồi thì sẽ không
Ai dạy các ông như vầy.
Pháp Hải và đồ chúng nghe
xong đều
Khóc rơi lụy, chỉ có duy
Thần Hội là bất động, Sư
dạy rằng:
- Ra chỉ có Thần Hội là
Có tâm bình đẳng, vui buồn
không sanh,
Khen chê bất động, ngoài
ra
Còn bao nhiêu đều chưa
hành được đây.
Vậy chớ các ông ở trong
Núi bao nhiêu năm, đã tu
đạo gì?
Nay các ông rơi lụy sầu
Là khóc cho ai? Nếu buồn
khóc tôi,
Không biết chỗ tôi đi rồi,
Nếu không tôi đã không
thông báo điềm
Trước cho các ông hay
liền.
Nếu các ông biết chỗ tôi
đi, thì
Thật không đáng khóc lóc
gì.
Pháp tánh vốn không đến đi
diệt sanh.
Thôi, hãy ngồi xuống nơi
đây,
Tôi sẽ nói cho các ông hay
rằng
Một bài kệ mệnh danh là
“Chơn giả động tịnh”. Các người
hãy nên
Học thuộc bài kệ này liền,
Đồng ý với tôi, theo đây
tu hành
Thì không mất tông chỉ
đâu.
Đại chúng đảnh lễ mà nghe
Sư rằng:
Hết thảy đều không thật
Không do thấy mà thật
Nếu giả cho là thật
Cái thấy đó không chơn.
Không do thấy mà thật
Nếu giả cho là thật
Cái thấy đó không chơn.
Nếu tự tánh có chơn
Lìa giả là tâm chơn
Tự tâm không lìa giả
Không chỗ nào có chơn.
Lìa giả là tâm chơn
Tự tâm không lìa giả
Không chỗ nào có chơn.
Loài hữu tình thì động
Vô tình thì bất động
Nếu tu hạnh bất động
Là hóa như vô tình.
Vô tình thì bất động
Nếu tu hạnh bất động
Là hóa như vô tình.
Tìm bất đông chơn thật
Là ngay nơi cái động
Còn như loài bất động
Vô tình, không Phật chủng
Là ngay nơi cái động
Còn như loài bất động
Vô tình, không Phật chủng
Khéo phân biệt pháp tướng
Là bất động đệ nhất
Chỉ cần thấy như vậy
Ấy là dụng chơn như.
Là bất động đệ nhất
Chỉ cần thấy như vậy
Ấy là dụng chơn như.
Hỡi các người học đạo
Hãy nổ lực để ý
Chớ ở cửa Đại thừa
Lại chấp sanh tử trí.
Hãy nổ lực để ý
Chớ ở cửa Đại thừa
Lại chấp sanh tử trí.
Nếu lời nói hợp nhau
Thì cùng bàn ý nghĩa
Nếu thật không hợp nhau
Cùng chấp tay vui hòa.
Thì cùng bàn ý nghĩa
Nếu thật không hợp nhau
Cùng chấp tay vui hòa.
Tông này không tranh cãi
Tranh cãi mất ý đạo
Giữ cái thói đấu tranh
Là đi vào sanh tử.
Tranh cãi mất ý đạo
Giữ cái thói đấu tranh
Là đi vào sanh tử.
(Ni Sư Trí Hải)
Đồ
chúng nghe kệ xong đều
Lễ
nguyện vâng Thánh ý này, và xin
Nhiếp
tâm theo đó tu hành,
Không
còn dám tranh cãi hay luận bàn .
Thượng
tọa Pháp Hải biết rằng
Sư
sẽ không còn trú lâu ở đời
Nên
đảnh lễ mà hỏi luôn:
-
Bạch, sau khi Hòa thượng rời thế gian
-
Y pháp sẽ truyền cho ai?
Sư
rằng: - Đại Phạm từ ngày đến nay
Những
pháp mà tôi nói ra
Hãy
sao lục mà lưu hành truyền đi
Đặt
tên PHÁP BẢO ĐÀN KINH.
Các
ông hãy gắng giữ gìn truyền trao
Để
hóa độ quần chúng vào.
Chỉ
nương theo đó để mà nói ra
Pháp,
đấy là Chánh pháp này.
Nay
tôi không trao y mà giảng thôi,
Bởi
vì tín căn các ông
Thuần
thục, quyết định không còn hoặc nghi,
Có
thể đảm trách việc to.
Lại
theo Thánh ý trong bài kệ xưa
Của
Ngài Đạt Ma Tổ Sư
Không
nên truyền y nữa, như kệ vầy:
“Ta vốn dĩ đến đất này
Để truyền pháp cứu mê nhân tình
Một hoa nở năm cánh xinh
Kết quả sẽ tự nhiên thành rất nhanh.”
Để truyền pháp cứu mê nhân tình
Một hoa nở năm cánh xinh
Kết quả sẽ tự nhiên thành rất nhanh.”
Sư lại dạy: - Các ông đây,
-Muốn thành tựu trí Phật
này phải nên
“Nhất tướng Tam muội” cũng
như
“Nhất hạnh Tam muội”. Đồng
thời các ông
Cũng không Chấp tướng, và
không
Sanh tâm yêu ghét lấy
trong bỏ ngoài,
Không nghĩ đến chuyện hoại
thành,
Luôn giữ thái độ an nhàn
điềm nhiên
Tịnh Như thái đạm bạc
liền,
Là Nhất tướng Tam muội
truyền cho ông.
Ở tất cả các chỗ đông,
Lúc đi lúc đứng nằm ngồi,
đều hay
Giữ một cái tâm thẳng
ngay,
Đó là bất động đạo tràng,
nghiêm trang
Đó là Tịnh độ thật chân,
Nhất hạnh Tam muội tinh
thần chân tâm.
Đủ hai thứ Tam muội này,
Thì như đất có ẩn tàng hạt
đây,
Dần dần lớn lên thành cây.
Nhất tướng nhất hạnh cũng
vầy mà thôi.
Tôi nói pháp như mưa rồi
Thấm vào đất đai đúng thời
tốt hay,
Phật tánh các ông như đây
Hạt giống gặp sự thấm
nhuần nở xinh.
Theo tông chỉ của tôi thì
Chắc chắn được trí Bồ đề
này luôn,
Theo hạnh của tôi thì mong
Sẽ chứng diệu quả. Hãy
nghe kệ này:
Đất tâm đủ các giống cây
Gặp mưa đều liền nảy mầm thành cây
Hoa “đốn ngộ” đã nở ra
Trái “Bồ đề” sẽ tự thành đạt ngay .
Gặp mưa đều liền nảy mầm thành cây
Hoa “đốn ngộ” đã nở ra
Trái “Bồ đề” sẽ tự thành đạt ngay .
Đọc bài kệ xong, Sư rằng:
- Pháp vốn không hai, và
tâm cũng vầy.
Đạo vốn tịnh không tướng
đâu.
Các ông hãy cẩn thận, nay
chớ lầm
Quán tịnh làm rỗng cái
tâm.
Tâm vốn thanh tịnh, chân
tâm như vầy
Không có một vật gì đây
Các ông có thể lấy hay bỏ
ngoài.
Các ông hãy nổ lực nha.
Đồ chúng đảnh lễ Ngài mà
lui ra.
Ngày mồng tám tháng bảy
ta,
Sư bảo rằng: - Tôi muốn về
Tân Châu,
Hãy mau sửa soạn thuyền
chèo.
Đại chúng tha thiết xin
Ngài lưu đây,
Nhưng Sư rằng: - Chư Phật
này
Ra đời còn thị hiện ngay
Niết bàn.
Có đến có đi lẽ thường,
Thân tôi đi về có nơi chỗ
rồi.
Chúng bạch: - Hòa thượng
đi rồi,
Xin sớm trở lại về nơi này
liền.
Xin sớm trở lại thế gian
Sư dạy rằng: - Lá rụng về
cội đây,
Khi trở lại không có ngày.
- Chánh pháp nhãn tạng nay
truyền cho ai?
Chúng lại hỏi Sư như vầy
Sư trả lời bằng hai câu kệ
này:
Hữu đạo giả
đắc
Vô tâm giả thông.
Vô tâm giả thông.
Người
có đạo thì được ngay
Người vô tâm thì thông vầy mà thôi.
Người vô tâm thì thông vầy mà thôi.
-
Bạch, khi Phật Tổ đến nay
Truyền
pháp đã được mấy đời, thưa Sư?
Xin
Ngài từ bi giải bày.
-
Chư Phật xưa xuất hiện ra đời thì
-
Chư Phật xưa xuất hiện ra đời thì
Số
lượng không thể đếm đi.
Kể
bảy vị Phật làm nguyên thủy vào
Kiếp
trung Nguyên, quá khứ như:
Tỳ Bà Thi, Thi Khí, Tỳ Xá Phù,
Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm, Ca Diếp, và Thích Ca Mâu Ni
Phật Tỳ bà Thi.
Phật Thi Khí.
Phật Tỳ Xá Phù.
Hiền kiếp hiện tại có:
Phật Câu Lưu Tôn.
Phật Câu Na Hàm Mâu Ni.
Phật Ca Diếp.
Thích Ca văn Phật.
Phật Thi Khí.
Phật Tỳ Xá Phù.
Hiền kiếp hiện tại có:
Phật Câu Lưu Tôn.
Phật Câu Na Hàm Mâu Ni.
Phật Ca Diếp.
Thích Ca văn Phật.
Ấy là bảy vị
Phật đây.
Từ Thích Ca
Mâu Ni truyền xuống như:
1. Tôn giả Ma
Ha Ca Diếp.
2. Tôn giả A Nan.
3. Tôn giả Thương Na Hòa Tu.
4. Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa.
5. Tôn giả Đề Đa ca.
6. Tôn giả Di Giá Ca.
7. Tôn giả Bà Tu Mật Đa.
8. Tôn giả Phật Đà Nan Đề.
9. Tôn giả Phục Đà Mật Đa.
10. Hiếp Tôn giả
11. Tôn giả Phú Na Dạ Xà.
12. Mã Minh Đại Sĩ.
13. Tôn giả Ca Tỳ Ma La.
14. Long Thụ Đại Sĩ.
15. Tôn giả Ca na Đề bà.
16. Tôn giả La hầu La Đa.
17. Tôn giả Tăng Già Nan Đề.
18. Tôn giả Già Da Xá Đa.
19. Tôn giả Cưu Ma La Đa.
20. Tôn giả Xà Da Đa.
21. Tôn giả Bà Tu Bàn Đầu.
22. Tôn giả Ma Noa La.
23. Tôn giả Cưu Lặc Na.
24. Tôn giả Sư Tử.
25. Tôn giả Bà Xá Tư Đa.
26. Tôn giả Bất Như Mật Đa.
27. Tôn giả Bát Nhã Đa La.
28. Tôn giả Bồ Đề Đạt ma.
Còn đất này thì có:
29. Đại Sư Huệ Khả.
30. Đại Sư Tăng Xán.
31. Đại Sư Đạo Tín.
32. Đại Sư Hoằng Nhẫn.
Huệ Năng là Tổ thứ 33.
2. Tôn giả A Nan.
3. Tôn giả Thương Na Hòa Tu.
4. Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa.
5. Tôn giả Đề Đa ca.
6. Tôn giả Di Giá Ca.
7. Tôn giả Bà Tu Mật Đa.
8. Tôn giả Phật Đà Nan Đề.
9. Tôn giả Phục Đà Mật Đa.
10. Hiếp Tôn giả
11. Tôn giả Phú Na Dạ Xà.
12. Mã Minh Đại Sĩ.
13. Tôn giả Ca Tỳ Ma La.
14. Long Thụ Đại Sĩ.
15. Tôn giả Ca na Đề bà.
16. Tôn giả La hầu La Đa.
17. Tôn giả Tăng Già Nan Đề.
18. Tôn giả Già Da Xá Đa.
19. Tôn giả Cưu Ma La Đa.
20. Tôn giả Xà Da Đa.
21. Tôn giả Bà Tu Bàn Đầu.
22. Tôn giả Ma Noa La.
23. Tôn giả Cưu Lặc Na.
24. Tôn giả Sư Tử.
25. Tôn giả Bà Xá Tư Đa.
26. Tôn giả Bất Như Mật Đa.
27. Tôn giả Bát Nhã Đa La.
28. Tôn giả Bồ Đề Đạt ma.
Còn đất này thì có:
29. Đại Sư Huệ Khả.
30. Đại Sư Tăng Xán.
31. Đại Sư Đạo Tín.
32. Đại Sư Hoằng Nhẫn.
Huệ Năng là Tổ thứ 33.
Từ
các đời chư Tổ xưa
Đều
có hệ thống truyền thừa về sau,
Các
ông cùng hãy thay nhau
Lưu
truyền Chánh Pháp chớ làm lạc sai.
Đại
chúng hỏi thêm với Ngài:
-
Về sau có nạn gì nào nữa không?
Sư
liền đáp trả lời rằng:
-
Sau khi tôi mất sáu năm, tức thì
Có
kẻ muốn trộm đầu tôi,
Nghe
tôi nói lời sấm này như sau:
Trên đầu nuôi
người thân
Trong miệng cần đồ ăn
Khi gặp nạn Mãn này
Dương Liễu làm quan xử.
Trong miệng cần đồ ăn
Khi gặp nạn Mãn này
Dương Liễu làm quan xử.
(Đầu thượng
dưỡng thân
Khẩu lý tu xan
Ngộ Mãn chi nạn
Dương Liễu vi quan).
Khẩu lý tu xan
Ngộ Mãn chi nạn
Dương Liễu vi quan).
Quý Sửu tháng tám mồng ba,
(Nhằm thời đại Tiên Thiên
năm thứ hai)
Thọ trai tại chùa Quốc Ân,
Khi xong, gọi đồ chúng Sư
bảo rằng:
- Các ông thứ bậc mà ngồi
xuống đây,
Tôi sẽ từ biệt hôm nay.
Pháp Hải bạch: - Hòa
thượng Ngài ra đi
Để lại giáo pháp những gì
Cho người mê đời sau thấy
được Phật tâm?
- Sư dạy: hãy nghe kỹ đây.
Nếu người đời sau, rõ ràng
chúng sanh,
Thì đấy là Phật tánh này.
Nếu không hiểu rõ chúng
sanh, đó thì
Vạn kiếp tìm Phật không
ra.
Tôi nay khuyên các ông nên
biết rằng
Rõ chúng sanh của tự tâm
Thì thấy Phật tánh tự tâm
của mình.
Muốn tìm thấy được Phật
thì,
Chỉ cần thấy biết chúng
sanh rõ ràng.
Chính vì chúng sanh mê
mang
Nên không thấy được Phật
tâm đó mà,
Chứ không phải Phật đã
làm,
Cho chúng sanh mê lầm .
Nếu ngộ được tự tánh,tâm
mình thì
Chúng sanh là Phật đây.
Nếu tự tánh mê, Phật thành
chúng sanh.
Tự tánh mà bình đẳng này,
Thì chúng sanh là Phật,
hay như vầy
Tự tánh mà hiểm hóc tà,
Thì Phật sẽ làm chúng sanh
thôi mà.
Nếu tâm hiểm độc quanh co
Phật bị ẩn khuất trong
lòng chúng sanh,
Khởi lên một niệm thẳng
ngay,
Thì đó là chúng sanh thành
Phật thôi.
Tâm ta tự có Phật rồi,
Đức Phật tự tâm mới là
Phật chân.
Tự tâm không có Phật tâm,
Tìm đâu ra Đức Phật chân
thật này?
Tự tâm của các ông đây
Chính là Phật đó, đừng hồ
nghi nha.
Ngoài tâm không một pháp
nào
Có thể kiến lập, hoặc là
như đây
Vạn pháp từ tâm sanh ra,
Cho nên Kinh dạy thế này
như sau
“Tâm sanh thì các pháp
sanh,
Tâm diệt các pháp diệt”
ngay tức thì,
Nay tôi để lại một bài
Cũng để từ biệt các ông,
gọi là
Kệ về Đức Phật chơn tâm
Chơn thật của tự tánh này
như sau.
Người đời sau nếu biết
ngay
Được ý của bài kệ này, thì
mau
Sẽ tự thấy được bản tâm,
Và tự thành Phật đạo ngay
như vầy:
Tự tánh chơn như là Phật thật
Tà kiến, ba độc là ma vương
Khi tà mê khởi; ma làm chủ
Khi chánh kiến sanh: Phật ngự tòa
Ba độc, tà kiến sanh nơi tánh
Ấy là ma vương lui tới nhà
Dùng chánh kiến trừ tâm ba độc
Thì ma hóa Phật thật không sai
Pháp thân, Báo thân và hóa thân
Ba thân xưa nay chỉ là một
Nếu xoay vào tánh mà tự thấy
Ấy là nhân thành Phật Bồ đề
Vốn từ Hóa thân sanh tịnh tánh
Tánh thanh tịnh ở trong Hóa thân
Tánh ấy khiến thân làm đạo chánh
Tương lai viên mãn vô cùng chơn
Tánh tội lỗi vốn là nhân của tịnh
Vì bỏ tội lỗi thành thân thanh tịnh
Tự tánh xa lìa hết ngũ dục
Sát na thấy tánh, đó là chơn
Đời nay nếu được pháp Đốn giáo
Liền gặp tự tánh, thấy thế Tôn
Nếu muốn tu hành, muốn làm Phật
Biết chỗ nào khác để cầu chơn?
Nếu tự thấy chơn ở trong tâm
Có chơn thật là nhân thành Phật
Không thấy tự tánh, tìm Phật ngoài
Khởi tâm như vậy là đại ngu si
Nay tôi lưu lại pháp Đốn giáo
Cứu thế độ nhân, hãy tự tu
Hỡi những người học Phật tương lai
Không thấy vậy thì rất mờ mịt.
Tà kiến, ba độc là ma vương
Khi tà mê khởi; ma làm chủ
Khi chánh kiến sanh: Phật ngự tòa
Ba độc, tà kiến sanh nơi tánh
Ấy là ma vương lui tới nhà
Dùng chánh kiến trừ tâm ba độc
Thì ma hóa Phật thật không sai
Pháp thân, Báo thân và hóa thân
Ba thân xưa nay chỉ là một
Nếu xoay vào tánh mà tự thấy
Ấy là nhân thành Phật Bồ đề
Vốn từ Hóa thân sanh tịnh tánh
Tánh thanh tịnh ở trong Hóa thân
Tánh ấy khiến thân làm đạo chánh
Tương lai viên mãn vô cùng chơn
Tánh tội lỗi vốn là nhân của tịnh
Vì bỏ tội lỗi thành thân thanh tịnh
Tự tánh xa lìa hết ngũ dục
Sát na thấy tánh, đó là chơn
Đời nay nếu được pháp Đốn giáo
Liền gặp tự tánh, thấy thế Tôn
Nếu muốn tu hành, muốn làm Phật
Biết chỗ nào khác để cầu chơn?
Nếu tự thấy chơn ở trong tâm
Có chơn thật là nhân thành Phật
Không thấy tự tánh, tìm Phật ngoài
Khởi tâm như vậy là đại ngu si
Nay tôi lưu lại pháp Đốn giáo
Cứu thế độ nhân, hãy tự tu
Hỡi những người học Phật tương lai
Không thấy vậy thì rất mờ mịt.
(Ni Sư Trí Hải)
Sư
nói xong bảo chúng rằng:
-
Các ông khéo ở lại và nhớ đây.
Sau
khi tôi diệt độ này,
Chớ
nên làm như thế gian, như là
Khóc
lóc, đau buồn thảm thương
Nhận
người phúng điếu chia buồn, vấn vương
Vận
tang phục và khóc thương,
Vậy
không phải đệ tử tôi, đó mà
Cũng
không phải Chánh pháp đâu.
Chỉ
cốt phải biết tự tâm của mình,
Thấy
tự tánh, không động không tịnh, và
Cũng
không diệt cũng không sanh,
Không
đến không ở, không đi, không về.
Và
cũng không thị không phi,
Sợ
các ông tâm còn mê như vầy.
Không
hiểu ý tôi nói đây,
Nay
tôi dặn dò một lần nữa nha
Để
ông thấy được bản tâm.
Sau
khi tôi diệt độ rồi nhớ nên
Hãy
theo đấy tu hành thì
Cũng
như tôi còn, nếu mà các ông
Làm
trái lời dạy của tôi,
Thì
dù tôi có ở đời tại đây
Cũng
không ích lợi gì này.
Rồi
Ngài dạy thêm một bài kệ sau:
Ngột ngột bất tu thiện
Đằng đằng bất tạo ác
Tịch tịch đoạn kiến văn
Đảng đảng tâm vô trước.
Đằng đằng bất tạo ác
Tịch tịch đoạn kiến văn
Đảng đảng tâm vô trước.
Trơ trơ không đắm thiện
Lăng xăng không tạo ác
Lặng lặng dứt thấy nghe
Tỏ tỏ tâm không vướng.
Lăng xăng không tạo ác
Lặng lặng dứt thấy nghe
Tỏ tỏ tâm không vướng.
Dạy kệ xong,
Ngài tọa thiền
Và ngồi cho
đến nửa đêm khi Ngài
Đoan tọa rất
là bình an
Thì gọi đồ
chúng mà từ biệt luôn:
“Tôi đi nhé”
tịch an nhiên.
Bấy giờ hương
lạ bay liền khắp nơi
Cầu vồng
trắng giáp đất rồi,
Cây rừng biến
thành trắng màu sương sa,
Cầm thú kêu
tiếng bi ai.
Đến tháng
(11) mười một trong năm ấy, thì
Quan liêu ở
ba quận sau
Quảng Châu,
Thiên Châu, Tân Châu và cùng
Đệ tử xuất
gia, tại gia
Đều tranh
cung nghênh chơn thân của Ngài
Về đến đất
của quận nhà,
Không thể
quyết đoán thỉnh Ngài về đâu.
Họ đốt hương
khấn nguyện rằng,
Nếu mà khói
bay về nơi đâu thì
Đại sư sẽ về
nơi này.
Khi ấy khói
bay thẳng về Tào Khê.
Tháng (11)
mười một, ngày (13) mười ba,
Thân Ngài
được cung nghênh về Tào Khê
Cùng với y
bát mang theo.
Năm sau, vào
tháng (7) Bảy ngày (25) hai lăm,
Quan tài Ngài
được mở ra,
Đệ tử của Tổ
là Phương Biện này
Ra công tô
ngoài thi hài
Một lớp đất
sét, bột nhồi trầm hương.
Nhớ lời tiên
đoán của Ngài
Về sự ăn cắp
đầu Ngài, cho nên
Họ bèn lấy
thiếc, vải sơn
Quấn vào cổ
Ngài đề phòng bị luôn
Trước khi
nhập tháp để thờ.
Bỗng nhiên từ
tháp hiện ra một luồng
Ánh sáng
trắng bay lên trời
Ba ngày sau
mới tan vào hư không.
Quan sở ở tại
Thiều Châu
Liền dâng sớ
tâu lên vua bấy giờ,
Cho nên vua
lập bia thờ
Ghi lại đạo
hạnh của Ngài Huệ Năng.
Trong bia Lục
Tổ ghi rằng
(24) Hai mươi
bốn tuổi được truyền bát y,
(39) Ba mươi
chín thế phát đây,
Thuyết pháp (37)
ba mươi bảy năm độ sanh.
Thọ (76) bảy
mươi sáu tuổi này,
Đệ tử đắc
pháp (43) bốn mươi ba người,
Số người ngộ
đạo thoát trần
Thì không kể
xiết muôn phần Pháp môn.
Y của Tổ Đạt Ma truyền
Y ma nạp, bình bát do Ngài
trung Tông
Tặng cùng với pho tượng
Ngài
Chính do Phương Biện đắp
tô và cùng
Các pháp khí khác đều giao
Người coi tháp giữ gìn tại
chùa Bảo Lâm.
Đàn Kinh này được lưu
truyền
Hiển minh tông chỉ của
thiền môn đây,
Làm cho Tam Bảo thịnh
hưng,
Đem lại lợi lạc cho quần sanh luôn.
Hết Phẩm Mười
Hanh Minh
[3]
(đánh dấu thuyền để tìm gươm. DG)
[4] Kiên phi công: thấy mà không dụng công phân biệt, thấy bằng trực
giác “đệ nhất phong đầu”.
[5] Tức đối các cảnh biến thiên mà tâm bất động
[6] Theo bản Anh dịch của ông Mou Lam. Hán không có đoạn này.